Phạm Nguyên Trường dịch
Những người còn nghi ngờ rằng văn chương không chỉ đưa chúng ta chìm vào giấc mơ của cái đẹp và hạnh phúc mà còn cảnh báo cho chúng ta về tất cả những hình thức áp bức, hãy tự hỏi mình vì sao tất cả các chế độ cố tình kiểm soát hành vi của các công dân từ lúc còn nằm nôi cho đến khi chết đều sợ tự do đến mức phải thiết lập hệ thống kiểm duyệt và phải theo dõi các nhà văn có tư tưởng độc lập một cách kĩ lưỡng đến như thế? Họ làm như thế vì biết rằng nếu để cho trí tưởng tượng tự do lang thang trên những trang sách thì họ sẽ gặp nguy hiểm đến mức nào, họ hiểu rằng khi người đọc so sánh cái tự do được thể hiện trong đó, so sánh cái tự do đủ sức làm cho trí tưởng tượng trở thành khả dĩ với chính sách ngu dân và sự sợ hãi đang đứng đợi ngoài đời thì trí tưởng tượng sẽ trở thành lực lượng dễ bùng nổ đến mức nào. Khi nhà văn nghĩ ra câu chuyện, thì dù muốn, hay không; dù biết, hay không, anh ta cũng đang truyền bá sự bất mãn: anh ta chỉ cho mọi người thấy rằng thế giới chưa hoàn thiện và cuộc đời trong trí tưởng tượng giàu có hơn là đời sống thường nhật của chúng ta. Nếu sự kiện này ăn sâu bén rễ vào nhận thức và tình cảm của người dân thì sẽ làm cho dân chúng trở thành những người vững vàng hơn, họ sẽ không dễ dàng nghe theo những lời nói dối của những điều tra viên và những tên cai ngục, những kẻ luôn thuyết phục họ rằng sống sau song sắt nhà tù thì sẽ an toàn hơn và sung sướng hơn.
Peru là Patricia, cô em họ
tôi, với cái mũi hếch và tình tình ương ngạnh mà tôi cưới được cách đây bốn
mươi lăm năm: đến tận bây giờ mà bà ấy vẫn còn chấp nhận được thói điên điên
khùng khùng và những cơn phẫn nộ giúp tôi đủ sức cầm bút. Không có bà, cuộc đời
tôi đã tan rã trong những cuộc động loạn từ rất lâu rồi, và tôi cũng đã chẳng
có Alvaro, Gonzalo, Morgana và sáu đứa cháu như bây giờ. Chúng đã làm cho cuộc
đời của chúng tôi dài thêm và vui vẻ hơn rất nhiều. Bà đã làm tất cả mọi việc
và việc gì bà cũng làm tốt. Bà giải quyết mọi vấn đề, bà quản lí gia đình, xếp
đặt lại trật tự, không cho các nhà báo và những người lắm chuyện đến gần, bà
bảo vệ thời gian cho tôi, bà quyết định những buổi gặp gỡ và những chuyến đi,
sắp xếp va li, bà là người rộng lượng đến nỗi ngay cả khi trách cứ bà cũng vẫn
khen tôi: “Mario, anh chỉ chỉ viết là giỏi thôi!”
Diễn văn từ Nobel 16 Tháng Tư 2014 22:13
Jorge Mario Pedro Vargas Llosa là một nhà văn, nhà báo, chính trị gia người Perú. Vargas Llosa là một trong những cây bút Mỹ La Tinh nổi trội trong lĩnh vực tiểu quyết và tiểu luận, cũng là một trong những tác giả hàng đầu thuộc thế hệ của mình. (Wikipedia)
Jorge Mario Pedro Vargas Llosa là một nhà văn, nhà báo, chính trị gia người Perú. Vargas Llosa là một trong những cây bút Mỹ La Tinh nổi trội trong lĩnh vực tiểu quyết và tiểu luận, cũng là một trong những tác giả hàng đầu thuộc thế hệ của mình. (Wikipedia)
Giải thưởng: Giải Nobel Văn học, Giải Cervantes, Giải Hòa bình của ngành kinh doanh sách Đức, Giải Jerusalem
Những người còn nghi
ngờ rằng văn chương không chỉ đưa chúng ta chìm vào giấc mơ của cái đẹp và hạnh
phúc mà còn cảnh báo cho chúng ta về tất cả những hình thức áp bức, hãy tự hỏi
mình vì sao tất cả các chế độ cố tình kiểm soát hành vi của các công dân từ lúc
còn nằm nôi cho đến khi chết đều sợ tự do đến mức phải thiết lập hệ thống kiểm
duyệt và phải theo dõi các nhà văn có tư tưởng độc lập một cách kĩ lưỡng đến
như thế? Họ làm như thế vì biết rằng nếu để cho trí tưởng tượng tự do lang
thang trên những trang sách thì họ sẽ gặp nguy hiểm đến mức nào, họ hiểu rằng
khi người đọc so sánh cái tự do được thể hiện trong đó, so sánh cái tự do đủ
sức làm cho trí tưởng tượng trở thành khả dĩ với chính sách ngu dân và sự sợ
hãi đang đứng đợi ngoài đời thì trí tưởng tượng sẽ trở thành lực lượng dễ bùng
nổ đến mức nào….
Thời thanh niên, cũng như nhiều nhà văn thuộc thế hệ tôi, tôi đã là
một người Marxist và tin rằng chủ nghĩa xã hội sẽ chữa trị được tình trạng bóc
lột và bất công xã hội vốn đã trở thành gay gắt ở đất nước tôi, ở Mĩ Latin và ở
cả phần còn lại của Thế giới Thứ ba
***
Tôi học đọc từ năm lên năm tuổi,
trong lớp học của người anh trai tên là Justiniano, trong ngôi trường mang tên
De la Salle Academy ở thành phố Cochabamba, Bolivia. Đấy là sự kiện
quan trọng nhất trong cuộc đời tôi. Gần bảy mươi năm sau tôi vẫn còn nhớ rất rõ
sự kì diệu của việc chuyển các từ ngữ trong sách thành hình ảnh đã làm cho cuộc
đời tôi thêm phong phú đến mức nào, nó đã phá vỡ các rào cản của không gian và
thời gian, nó cho phép tôi ngao du cùng thuyền trưởng Nemo suốt hai vạn dặm
dưới đáy biển, chiến đấu cùng d’Artagnan, Athos, Portos và Aramis trong cuộc
đấu tranh chống lại những mưu toan nhằm hãm hại nữ hoàng trong những ngày
Richelieu nắm quyền; hay hóa thân thành Jean Valjean đang cõng trên lưng tấm
thân bất động của Marius và tập tễnh bước trong những đường cống ngầm của
Paris.
Đọc biến giấc mơ thành
cuộc đời và biến cuộc đời thành giấc mơ và đưa cả vũ trụ văn chương đền gần tới
mức một cậu bé như tôi hồi ấy cũng có thể với tới được. Mẹ tôi nói rằng những
tác phẩm đầu tay của tôi là sự tiếp tục của những câu chuyện mà tôi đã đọc vì
tôi cảm thấy buồn khi câu chuyện kết thúc hoặc là tôi muốn thay đổi kết cục của
chúng. Mà cũng có thể đây chính là điều tôi đã làm cả đời nhưng không nhận ra:
tôi đã kéo dài – ngay cả khi đã trưởng thành và già đi – những câu chuyện từng
lấp đầy tuổi thơ tôi bằng những điều kinh ngạc và những cuộc phiêu lưu.
Ước gì hôm nay mẹ tôi cũng
có mặt ở đây, mẹ tôi từng khóc khi đọc thơ của Amado Nervo và Pablo Neruda. Cả
ông tôi là Pedro nữa – ông có một cái mũi to và cái đầu hói bóng loáng – chính
ông đã khen ngợi những bài thơ của tôi. Và cả bác Lucho, người đã nhiệt tình
khuyến khích tôi dành cả tâm hồn và thể xác cho việc viết lách dẫu rằng văn
chương ở thời đó và tại đấy chẳng bù đắp được gì nhiều cho những người dấn thân
vì sự nghiệp của nó. Những người như thế đã đứng bên tôi trong suốt cuộc đời
mình, những người đã yêu thương tôi, động viên tôi và truyền cho tôi niềm tin
của họ mỗi khi tôi ngã lòng. Nhờ có họ và dĩ nhiên là nhờ sự ngoan cố và một ít
may mắn của tôi mà tôi đã có thể dành hầu như toàn bộ cuộc đời mình cho niềm
say mê, cho một thói xấu, cho sự kì diệu của việc viết lách, cho sự
sáng tạo ra một đời sống song hành với cuộc đời của chúng ta để ta có thể tạm
trú mỗi khi xảy ra nghịch cảnh, tạo ra cuộc sống có thể biến điều khác thường
trở thành tự nhiên và tự nhiên lại trở thành khác thường, xua tan hỗn loạn,
biến xấu thành đẹp, biến phút chốt trở thành thiên thu, và vượt qua được cả
chết chóc.
Sáng tác truyện không phải
là việc dễ. Khi tình tiết câu chuyện trở thành ngôn từ thì dự định tan dần ra
trên trang giấy, ý tưởng và hình ảnh cũng nhạt nhòa theo. Làm thế nào để chúng
lại trở thành sống động? May là lúc nào cũng có các bậc đại sư ở bên cạnh, bao
giờ cũng có những người thày để tôi học, những thí dụ để tôi theo. Flaubert dạy
tôi rằng tài năng là kỉ luật sắt và sự kiên trì trong một thời gian dài.
Faulkner dạy tôi rằng hình thức – phong cách và cấu trúc tác phẩm – có thể làm
tăng hay giảm giá trị của đề tài. Martorell, Cervantes, Dickens, Balzac,
Tolstoy, Conrad, Thomas Mann dạy tôi rằng phạm vi và qui mô của tác phẩm cũng
quan trọng chắng khác gì văn phong và bố cục. Sartre dạy tôi rằng ngôn từ là
hành động, rằng một cuốn tiểu thuyết, một vở kịch hay một tiểu luận, trong
những giai đoạn nhất định và với những điều kiện thuận lợi, có thể làm thay đổi
cả cục diện của lịch sử. Camus và Orwell dạy tôi rằng văn chương mà không có
đạo đức là văn chương phi nhân, còn Malraux thì dạy tôi rằng chủ nghĩa anh hùng
và anh hùng ca có thể xuất hiện trong thời đại ngày nay cũng như đã từng xuất
hiện vào thời của các các Argonauts, thời của Odyssey và Iliad.
Nếu trong bài diễn văn này
tôi phải nhắc lại tên tất cả những nhà văn mà tôi hàm ơn – cả trong việc lớn
lẫn việc nhỏ – thì bóng của họ sẽ làm mờ mịt cả đất trời. Nhiều đến nỗi không
thể nào đếm nổi. Họ không chỉ chia sẻ với tôi những bí quyết của nghệ thuật
viết truyện mà còn giúp đỡ tôi khám phá những tầng sâu thẳm nhất trong tâm hồn
của con người, ngưỡng mộ sự nghiệp anh hùng và kinh hoàng trước những hành vi
tàn bạo cũng của con người. Họ là những người bạn sốt sắng nhất của tôi, là
những người đã thổi hồn vào năng khiếu của tôi, từ những tác phẩm của họ tôi đã
phát hiện ra rằng ngay cả trong những hoàn cảnh tồi tệ nhất thì người ta vẫn có
quyền hi vọng, và phải cố gắng sống vì nếu không sống thì ta sẽ không thể đọc
và không thể nghĩ ra những câu chuyện.
Có đôi khi tôi đã tự hỏi
rằng ở một đất nước như nước tôi, một đất nước có rất ít người đọc, lại có quá
nhiều người nghèo và mù chữ, có quá nhiều bất công và văn học là đặc quyền của
một số ít người thì viết có phải là thú chơi xa xỉ hay không. Nhưng những ngờ
vực như thế không bao giờ dập tắt đam mê của tôi, tôi vẫn viết ngay cả khi việc
kiếm sống chiếm hấu như toàn bộ thời gian của tôi. Tôi tin rằng mình đã
hành động đúng, vì nếu văn học chỉ phát triển khi xã hội phải đã nền văn hóa
cao, đã có tự do, thịnh vượng và công lí thì văn học sẽ không bao giờ tồn tại
được. Nhưng nhờ có văn chương, nhờ nhận thức mà nó định hình, nhờ những khát
vọng và đam mê mà gây ra trong lòng người đọc và nhờ sự thất vọng với hiện thực
sau khi chúng ta trở về từ cuộc viễn du vào trong vương quốc tuyệt với của trí
tưởng tượng mà nền văn minh hiện nay đã không còn tàn bạo như thời những người
kể truyện bắt đầu nhân tính hóa cuộc đời bằng những truyện ngụ ngôn của họ. Nếu
không có những cuốn sách hay mà ta đã đọc thì ta sẽ là những người tồi tệ hơn,
dễ thỏa hiệp hơn, không điềm đạm bằng, dễ bảo hơn, và tinh thần phê phán, cũng
là động cơ của tiến bộ sẽ không thể tồn tại được. Tương tự như viết, đọc cũng
là cách tự vệ nhắm chống lại những thiếu thốn của cuộc đời. Khi chúng ta tìm
trong tác phẩm văn chương cái mà cuộc đời còn chưa có, ta nói, mà không thành
tiếng hoặc thậm chi không biết là mình nói, rằng cuộc đời, như nó đang là,
không thể thỏa mãn được cơn khát của ta về cái tuyệt đối – nền tảng của điều
kiện sống của con người – và cuộc sống phải tốt hơn. Chúng ta tưởng tượng để có
thể sống nhiều cuộc đời như ta mong muốn trong khi ta chỉ có mỗi một cuộc đời
mà thôi.
Không có trí tưởng tượng
chúng ta sẽ không nhận thức được rằng giá trị của tự do là làm cho cuộc đời trở
thành chịu đựng được, khi tự do bị những tên bạo chúa, những hệ tư tưởng hay
tôn giáo chà đạp thì cuộc đời sẽ trở thành địa ngục trần gian. Những người còn nghi ngờ rằng văn chương không chỉ đưa chúng ta chìm vào giấc mơ của cái đẹp và hạnh phúc mà còn cảnh báo cho chúng ta về tất cả những hình thức áp bức, hãy tự hỏi mình vì sao tất cả các chế độ cố tình kiểm soát hành vi của các công dân từ lúc còn nằm nôi cho đến khi chết đều sợ tự do đến mức phải thiết lập hệ thống kiểm duyệt và phải theo dõi các nhà văn có tư tưởng độc lập một cách kĩ lưỡng đến như thế? Họ làm như thế vì biết rằng nếu để cho trí tưởng tượng tự do lang thang trên những trang sách thì họ sẽ gặp nguy hiểm đến mức nào, họ hiểu rằng khi người đọc so sánh cái tự do được thể hiện trong đó, so sánh cái tự do đủ sức làm cho trí tưởng tượng trở thành khả dĩ với chính sách ngu dân và sự sợ hãi đang đứng đợi ngoài đời thì trí tưởng tượng sẽ trở thành lực lượng dễ bùng nổ đến mức nào. Khi nhà văn nghĩ ra câu chuyện, thì dù muốn, hay không; dù biết, hay không, anh ta cũng đang truyền bá sự bất mãn: anh ta chỉ cho mọi người thấy rằng thế giới chưa hoàn thiện và cuộc đời trong trí tưởng tượng giàu có hơn là đời sống thường nhật của chúng ta. Nếu sự kiện này ăn sâu bén rễ vào nhận thức và tình cảm của người dân thì sẽ làm cho dân chúng trở thành những người vững vàng hơn, họ sẽ không dễ dàng nghe theo những lời nói dối của những điều tra viên và những tên cai ngục, những kẻ luôn thuyết phục họ rằng sống sau song sắt nhà tù thì sẽ an toàn hơn và sung sướng hơn.
Văn chương đích thực xây
những cây cầu kết nối các dân tộc lại với nhau, và bằng cách làm cho chúng ta
vui, đau khổ hay ngạc nhiên, nó liên kết chúng ta, mặc cho những khác biệt về
ngôn ngữ, tín ngưỡng, thói quen và thành kiến. Khi con cá voi lớn chôn cất
thuyền trưởng Ahab vào lòng đại dương thì trái tim của độc giả ở Tokyo , Lima hay
Timbuctu cùng run sợ như nhau. Khi bà Emma Bovary nuốt thạch tín, khi Anna
Karenina lao vào đầu đòan tàu hỏa, khi Julien Sorel leo lên đoạn đầu đài, và
khi ông bác sĩ Juan Dahlmann trong tác phẩm El sur bước từ
quán rượu ra ngoài phố, nơi có một kẻ sát nhân cầm dao đang đợi ông hoặc khi ta
biết rằng toàn thể dân làng Comala, làng của Pedro Páramo, đều đã chết thì dù
là người Phật tử, người theo Khổng giáo, theo Thiên chúa giáo hay theo Hồi giáo
hay người theo thuyết bất khả tri, dù là người vận com lê và cà vạt hay kimono
hoặc mặc gì đi nữa thì chúng ta cũng đều rùng mình như nhau. Văn chương tạo ra
tình huynh đệ trong sự đa dạng và xóa nhòa biên giới – do sự ngu dốt, do các hệ
tư tưởng, do các tôn giáo, do ngôn ngữ và sự đần độn tạo ra – giữa người với
người.
Mỗi thời ác mộng mỗi khác.
Thời của chúng ta là thời của những kẻ cuồng tín, của những tên khủng bố liều
chết: đấy là giống người có từ quá khứ xa xưa, họ tin rằng giết người là được
lên thiên đàng, rằng máu của những người vô tội sẽ rửa sạch những nỗi nhục nhã
mà người ta đã gây ra cho bộ lạc của họ, sẽ sửa chữa được bất công và sẽ đem
chân lí thay thế cho niềm tin sai lầm. Trên khắp thế giới, hàng ngày có biết
bao nhiêu người trở thành nạn nhân của những kẻ cho rằng họ là người nắm được
chân lí tuyệt đối. Khi đế chế toàn trị sụp đổ, chúng ta từng tin
rằng hòa bình, chủ nghĩa đa nguyên và quyền con người sẽ giành được sự tôn
trọng và những hiện tượng như giết hại hàng loạt người Do Thái, tội diệt chủng,
xâm lược và chiến tranh hủy diệt sẽ trở thành quá khứ. Nhưng không phải như
thế. Tình trạng dã man bung ra dưới những hình thức mới, lại được sự cuồng tín
khuyến khích và cùng với sự phổ biến của vũ khí hủy diệt hàng loạt, chúng ta
không được quên rằng một nhóm những “đấng cứu thế” điên rồ một ngày nào đó có
thể kích động một vụ hủy diệt hạt nhân. Chúng ta phải ngăn chặn, phải chống lại
và phải đánh bại chúng. Số đó không phải là nhiều, mặc dù tội ác của chúng đã
gây ra những vụ ồn ào lan truyền trên khắp hành tinh và những cơn ác mộng mà
chúng gây ra đã làm chúng ta khiếp sợ. Nhưng chúng ta không được để cho những
kẻ muốn tước đoạt quyền tự do mà chúng ta đã dành được trong suốt chiều dài
lịch sử của nền văn minh đe dọa chúng ta. Chúng ta phải bảo vệ nền dân chủ tự
do: với tất cả những hạn chế của mình, dân chủ tự do vẫn là hiện thân của chủ
nghĩa đa nguyên về mặt chính trị, cùng tồn tại, lòng khoan dung, quyền con
người, tôn trọng ý kiến phê bình, tính chính danh, bầu cử tự do, luân phiên nắm
quyền – tức là tất cả những gì đã đưa chúng ta ra khỏi tình trạng dã man và đã
đưa chúng ta đến gần hơn – dù không bao giờ đạt được – với cuộc sống tốt đẹp,
cuộc sống lí tưởng mà văn chương đã vẽ ra, một cuộc sống mà ta chỉ có thể nghĩ
ra, viết lên giấy và đọc được mà thôi. Chiến đấu chống lại những kẻ cuồng tín
sát nhân là chúng ta đang bảo vệ quyền được mơ ước và quyền biến ước mơ thành
sự thật của chúng ta.
Thời thanh niên, cũng như nhiều nhà văn thuộc thế hệ tôi, tôi
đã là một người Marxist và tin rằng chủ nghĩa xã hội sẽ chữa trị được tình
trạng bóc lột và bất công xã hội vốn đã trở thành gay gắt ở đất nước tôi, ở Mĩ
Latin và ở cả phần còn lại của Thế giới Thứ ba.
Sự vỡ mộng của tôi với chủ nghĩa
quốc gia, chủ nghĩa tập thể và quá trình chuyển hóa để trở thành một người dân
chủ và theo trường phái tự do như tôi đang là – và cố gắng trở thành – là một
quá trình lâu dài và đầy khó khăn. Quá trình này diễn ra một cách chậm chạp, là
hậu quả của việc chuyển hóa cách mạng Cuba – mà ban đầu tôi rất ngưỡng mộ –
theo mô hình toàn trị của Liên Xô, hậu quả của những câu chuyện của những người
bất đồng chính kiến đã chạy thóat khỏi hàng rào kẽm gai của quần đảo ngục tù
GULAG, của cuộc xâm lược của quân đội các nước khối Warsaw vào Tiệp Khắc, và
của những nhà tư tưởng như Raymond Aron, Jean Francois Rével, Isaiah Berlin, và
Karl Popper, nhờ có họ mà tôi đã đánh giá lại nền văn hóa dân chủ và xã hội mở.
Họ là những tấm gương về sự sáng suốt và lòng dũng cảm giữa lúc giới trí thức
phương Tây, vì tính nhẹ dạ và chủ nghĩa cơ hội, có vẻ như đã bị chủ nghĩa xã
hội Liên Xô cho ăn bùa mê thuốc lú, hoặc thậm chí còn tồi tệ hơn thế, là đã bị
mụ phù thủy mình đầy máu me của Cuộc Đại Cách Mạng Văn Hóa của Trung Quốc lừa
gạt nữa.
Khi còn bé tôi đã mơ được
đến Paris, vì bị nền văn học Pháp hớp hồn, tôi tin rằng được sống ở đấy, được
thở bầu không khí mà Balzac, Stendhal, Baudelaire, và Proust đã từng thở sẽ
giúp tôi trở thành nhà văn thực sự, còn cứ ở lại Peru thì tôi chỉ có thể trở
thành nhà văn cho những tờ phụ trương ra ngày chủ nhật và ngày lễ mà thôi. Sự
thật là tôi mang ơn nước Pháp và nền văn hóa Pháp vì những bài học không thể
nào quên, thí dụ như văn chương không chỉ là đam mê mà còn là kỉ luật, lao động
và lòng kiên trì nữa. Tôi đã sống ở đấy khi Sartre và Camus còn sống và còn
sáng tác, tôi đã sống cùng thời với Ionesco, Beckett, Bataille và Cioran, cùng
thời với kịch của Brecht và phim của Ingmar Bergman, với Nhà hát Nhân dân Quốc
gia của Jean Vilar và Odéon của Jean-Louis Barrault, của Làn sóng mới và Tiểu
thuyết mới, cùng thời với những bài diễn văn và tác phẩm tuyệt vời của André
Malraux, và cùng thời với những buổi họp báo và những bài phát biểu nảy lửa của
Tướng De Gualle, cũng có thể được coi là quang cảnh hoành tráng nhất châu Âu
thời đó. Nhưng trước hết tôi tôi mang ơn nước Pháp vì đã giúp tôi phát hiện ra
châu Mĩ Latin. Chính ở đây tôi đã hiểu ra rằng Peru là một phần của một cộng
đồng to lớn, liên kết với nhau bằng lịch sử, địa lí, bằng các vấn đề chính trị
và xã hội, bằng cách sống, và bằng ngôn ngữ tuyệt vời mà người dân ở đấy nói và
viết. Chính trong những năm đó cộng đồng này đã sản sinh ra một nền văn học
mới, đầy sức mạnh. Ở đây, tôi đã đọc Borges, Octavio Paz, Cortázar, García
Márquez, Fuentes, Cabrera Infante, Rulfo, Onetti, Carpentier, Edwards, Donoso,
và nhiều người khác. Tác phẩm của họ đã làm được một cuộc cách mạng trong văn
chương viết bằng tiếng Tây Ban Nha, nhờ có họ mà châu Âu và những khu vực khác
trên thế giới mới phát hiện ra rằng Mĩ Latin không chỉ là những cuộc đảo chính
quân sự, những bạo chúa, những người du kích râu dài và những đồ lưu niệm và nhạc
cha-cha-cha mà còn có những ý tưởng, những hình thức nghệ thuật, những hình
tượng văn học làm cho người ta quan tâm không phải chỉ vì sự hiếu kì mà là
những hình tượng nói bằng ngôn ngữ chung của cả loài người.
Từ đó đến nay, dù còn có
những sai lầm và vấp váp, như César Vallejo nói trong bài thơ Hay,
hermanos, muchísimo que hacer [Vẫn còn nhiều việc phải làm, bạn ơi],
nhưng Mĩ Latin vẫn đang tiến lên. Các chế độ độc tài đã không còn nhiều như
xưa, chỉ còn Cuba và
nước theo đuôi nó là Venezuela ,
và một số chế độ đang chơi trò hề dân chủ ở Bolivia và Nicaragua mà
thôi. Nhưng tại các khu vực khác, chế độ dân chủ đang hoạt động một cách hiệu
quả, có sự đồng thuận rộng rãi của đa số dân chúng, và đây là lần đầu tiên
trong lịch sử của chúng tôi, tại các nước như Brazil, Chile, Uruguay, Peru,
Colombia, Cộng hòa Dominican, Mexico, và tại hầu hết các nước vùng Trung Mĩ cả
phe tả và phe hữu đều tôn trọng pháp luật, tôn trọng quyền tự do phê phán, tôn
trọng bầu cử và thay nhau cầm quyền. Đấy là con đường đúng đắn và nếu tiếp tục
tiến bước trên con đường đó, tiếp tục đấu tranh chống nạn tham nhũng và hội
nhập với thế giới thì cuối cùng châu Mĩ Latin sẽ không còn là lục địa của tương
lai nữa mà sẽ trở thành lục địa của hiện tại.
Tôi không bao giờ cảm thấy
mình là người ăn nhờ ở đậu ở châu Âu hay ăn nhờ ở đâu ở bất cứ nơi nào khác. Dù
sống ở đâu, dù đấy có là Paris, London, Barcelona, Madrid, Berlin, Washington,
New York, Brazil, hay cộng hòa Dominica thì tôi cũng cảm thấy như
đang sống ở nhà mình vậy. Nơi nào tôi có thể sống trong hòa bình, có thể làm
việc, tìm hiểu những điều mới lạ, ước mơ, và tìm được bạn bè, tìm được những
cuốn sách hay để đọc, đề tài hay để viết thì đấy chính là tổ ấm của tôi. Tôi
không nghĩ rằng việc tôi trở thành, dù không có chủ ý, người công dân của thế
giới đã làm phai nhạt “gốc rễ” của tôi, phai nhạt mối liên hệ của
tôi với đất nước tôi, vì nếu xảy ra chuyện đó thì những trải nghiệm ở Peru đã
không còn tiếp tục nuôi dưỡng tâm hồn tôi và không thường xuyên xuất hiện trong
những câu chuyện của tôi, dù có vẻ như những chuyện đó diễn ra ở những nơi rất
xa Peru. Ngược lại, tôi tin rằng sống trong một thời gian dài ở xa đất nước nơi
tôi ra đời đã củng cố thêm những mối quan hệ đó, làm cho chúng trở thành sống
động hơn, tạo ra lòng hoài cổ có thể phân biệt được bản chất và những cái râu
ria khác, và giữ cho kỉ niệm luôn luôn sống động. Tình yêu đất nước nơi ta ra
đời không thể là tình cảm bắt buộc, nó, cũng giống như tất cả những tình cảm
khác, phải là hành động tự phát của trái tim, tương tự như tình cảm gắn bó giữa
những cập tình nhân, giữa cha mẹ và con cái, và giữa bạn bè với nhau vậy.
Tôi mang Peru trong trái
tim mình vì đấy là nơi sinh của tôi, nơi tôi lớn lên, tôi trưởng thành, và sống
với những trải nghiệm của thời thơ ấu và tuổi thanh xuân, những trải nghiệm đã
định hình cá tính của tôi và rèn đúc thiên hướng của tôi, đấy là nơi tôi đã
yêu, đã ghét, đã vui, đã đau khổ và đã ước mơ. Những điểu xảy ra ở đấy có ảnh
hưởng đến tôi, làm tôi xúc động và bức xúc hơn là những điều xảy ra ở bất cứ nơi
nào khác. Tôi không muốn, cũng không ép mình phải làm như thế, đơn giản là đã
xảy ra như thế. Một số đồng bào của tôi đã kết án tôi là phản bội, súyt nữa thì
tôi đã mất quyền công dân, đấy là vì trong giai đoạn cai trị của chế độ độc tài
vừa qua tôi đã kêu gọi các chính phủ dân chủ trên thế giới áp dụng các biện
pháp ngoại giao và kinh tế nhằm trừng phát nó, như tôi đã luôn làm như thế với
tất cả các chế độ độc tài khác như Pinochet, Fidel Castro, Taliban ở
Afghanistan, Hồi giáo ở Iran, phân biệt chủng tộc ở Nam Phi, độc tài quân sự ở
Myanmar. Ngày mai tôi cũng sẽ làm như thế, nếu – số phận không muốn như thế và
nhân dân Peru cũng không cho phép như thế – Peru lại trở thành nạn nhân của một
cuộc đảo chính quân sự, phá hủy nền dân chủ còn yếu ớt của chúng ta. Đấy không
phải là hành động hấp tấp, cảm tính của một người bất mãn, như một số cây bút
nửa mùa, những kẻ đã quen đánh giá người khác theo quan niệm nhỏ nhen của họ,
đã viết. Đấy là hành động phù hợp với niềm tin của tôi rằng chế độ độc tài là
điều tệ hại nhất của đất nước, là nguồn gốc của sự bạo tàn và tham nhũng và là
vết thương đã ăn sâu vào da thịt cần thời gian điều trị lâu dài, nó đầu độc
tương lai của dân tộc, nó tạo ra những thói quen và cách hành xử nguy hiểm kéo
dài trong nhiều thế hệ và làm chậm lại quá trình hồi sinh của nền dân chủ. Đấy
là lí do vì sao phải đấu tranh chống chế độ độc tài một cách không khoan
nhượng, bằng tất cả các phương tiện có trong tay, kể cả cấm vận kinh tế. Đáng
tiếc là các chính phủ dân chủ, đáng lẽ phải sát cánh với những phong trào như
“Phụ nữ mặc áo trắng” ở Cuba, phong trào đối lập ở Venezuela hay những người
như bà Aung San Suu Kyi và ông Lưu Hiểu Ba, tức là những người chiến đấu kiên
cường với chế độ độc tài, nhiều khi lại có thái độ ân cần đối với những tên cai
ngục đang giam giữ họ. Những con người dũng cảm đó không chỉ đấu tranh cho
quyền tự do của mình mà còn đấu tranh cho quyền tự do của tất cả chúng ta.
José María Arguedas, một
người đồng hương của tôi, đã gọi Peru là đất nước của “mọi sắc
dân”. Tôi không tin là có thể tìm được định nghĩa tốt hơn. Chúng ta là như thế
và đấy là điều mà mọi người Peru đều mang sẵn trong lòng,
dù người đó có muốn hay không: đấy là toàn thể những truyền thống, chủng tộc,
tín ngưỡng và văn hóa, xuất phát từ bốn thành tố căn bản. Tôi tự hào khi cảm
thấy mình là hậu duệ của nền hóa tiền-Tây Ban Nha, tức là nền văn hóa đã tạo ra
vải và áo choàng bằng lông chim của Nazca và Paracas, tạo ra đồ gốm vùng
Mochica hay Inca hiện đang được trưng bày trong những bảo tàng danh tiếng nhất
thế giới, những người thợ xây dựng nên Machu Picchu, Gran Chimú, Chan Chan,
Kuelap, Sipán, những nghĩa địa ở La Bruja, El Sol và La Luna, và hậu duệ của
người Tây Ban Nha, những người cùng với giáo gươm, ngựa và yên ngựa đã đem đến
Peru nền văn minh Hi Lạp, nền văn minh La Mã, truyền thống Do Thái-Thiên chúa
giáo, mang đến thời đại Phục hưng, mang đến Cervantes, Quevedo và Góngora, và
giọng nói chói tai vùng Castile pha trộn với ngôn ngữ ngọt ngào xứ Andes. Và
cùng với Tây Ban Nha là châu Phi, sức mạnh của nó, nền âm nhạc của
nó, trí tưởng tượng sôi sục của nó đã làm phong phú thêm cho tính đa dạng
của Peru .
Chỉ cần tìm hiểu sâu một chút thôi là chúng ta sẽ phát hiện ra rằng Peru , tương tự
như Aleph của Borges, là toàn thề giới thu nhỏ lại. Đất nước không có bản sắc
bởi vì nó có tất các mọi bản sắc, đấy chẳng phải là niềm vinh hạnh không gì
sánh nổi hay sao!
Cũng giống như mọi cuộc
xâm lăng khác, cuộc xâm lăng châu Mĩ dĩ nhiên là dã man và tàn bạo rồi, chúng
ta phải lên án nó. Nhưng chúng ta thường quên điều không được quên là những
người cướp bóc và phạm tội ở đây chính là những cụ cố, những tằng tổ của chúng
ta, những người đã đi từ Tây Ban Nha đến Mĩ và tiếp thu lối sống Mĩ chứ không
phải là những người Tây Ban Nha vẫn sống trên quê hương của họ. Muốn
trở thành công chính thì lời phê bình như thế cũng phải là lời tự phê bình. Vì
hai trăm năm trước, khi chúng ta giành được độc lập từ tay Tây Ban Nha, những
người nắm được chính quyền tại các nước thuộc địa cũ đã không những không giải
phóng người da đỏ châu Mĩ, không sửa chữa những sai lầm trong quá khứ mà còn
tiếp tục bóc lột họ một cách tham lam và tàn bạo chẳng khác gì những kẻ xâm
lược, và ở một số nước họ còn tiêu diệt một phần hoặc toàn bộ dân chúng bản địa
nữa. Chúng ta phải nói một cách thật rõ ràng: suốt hai trăm năm qua việc giải
phóng người bản xứ là trách nhiệm riêng của chúng ta, nhưng chúng ta đã không hoàn
thành trách nhiệm này. Vấn đề này vẫn chưa được giải quyết trên toàn lục địa Mĩ
Latin. Đấy thật là điều nhục nhã và xấu hổ đối với tất cả chúng ta, không trừ
một ai!
Tôi yêu Tây Ban Nha cũng
như yêu Peru vậy,
món nợ và lòng biết ơn của tôi với đất nước này cùng lớn như nhau. Nếu không có
Tây Ban Nha thì tôi sẽ chẳng bao giờ bước lên được chiếc bục này hoặc có thể
trở thành một nhà văn nổi tiếng, mà có thể, giống như nhiều đồng nghiệp không
được số phận ưu ái khác, tôi vẫn nằm trong số những nhà văn kém may mắn, không
được xuất bản, không có giải thưởng và không có độc giả, những người mà tài
năng – thật đáng buồn thay – có thể được hậu thế phát hiện. Tất cả các tác phẩm
của tôi đều được xuất bản ở Tây Ban Nha, ở đấy tôi đã được mọi người quá ưu ái
và những người bạn của tôi như Carlos Barral, Carmen Balcells và nhiều người
khác nữa đã rất nhiệt tình trong việc đưa tác phẩm của tôi đến với người đọc.
Và Tây Ban Nha đã cho tôi quốc tịch thứ hai ngay khi tôi có thể bị tước quyền
công dân. Tôi không bao giờ cảm thấy bất kì sự bất bình thường nào giữa việc
tôi là người Peru nhưng lại có hộ chiếu Tây Ban Nha vì tôi luôn cảm thấy Tây
Ban Nha và Peru là hai mặt của một đồng tiền, đấy không chỉ là trong con người
cá nhân nhỏ bé của tôi mà còn trong những vấn đề căn bản như lịch sử, ngôn ngữ
và văn hoá nữa.
Sau tất cả những năm đã
sống trên mảnh đất Tây Ban Nha, tôi nhớ nhất năm năm cư ngụ ở Barcelona yêu dấu
vào đầu những năm 1970. Chế độ độc tài Franco vẫn đang ngự trị và tiếp tục bắn
giết, nhưng lúc đó nó đã là cái xác quấn bằng rẻ rách rối, nó không còn kiểm
soát được xã hội như trước nữa, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hoá. Vết nứt và
lỗ thủng xuất hiện khắp nơi, nhân viên kiểm duyệt không còn đủ sức bôi trám
nữa, và xã hội Tây Ban Nha, thông qua những kẻ hở này, đã tiếp thu được những ý
tưởng mới, tác phẩm mới, xu hướng triết học mới, giá trị và những hình thức
nghệ thuật mới, vốn bị coi là phản loạn và bị cấm trước đó. Không có thành phố
nào tận dụng được giai đoạn mở màn của quá trình dân chủ hoá này một cách toàn
diện và tốt hơn là Barcelona, không có thành phố nào được trải nghiệm một sự
phấn khích trong lĩnh vực tư tưởng và sáng tạo đến như thế. Barcelona đã trở
thành thủ đô văn hoá của Tây Ban Nha, phải ở đây thì mới hít thở được bầu không
khí của một nền tự do đang gần kề. Và theo một nghĩa nào đó thì đấy cũng đã là
thủ đô văn hoá của Mĩ Latin vì có khá nhiều hoạ sĩ, nhiều nhà văn, nhà xuất bản
và nghệ sĩ từ các nước Mĩ Latin đã ở hoặc đi đi về về Barcelona: trong thời của
chúng tôi, nếu bạn muốn trở thành nhà thơ, nhà văn, nghệ sĩ hay nhạc sĩ thì bạn
phải tới Barcelona. Đối với tôi, đấy là những năm tháng không thể nào quên được
của tình bằng hữu, của những dự định và lao động sáng tạo đấy hiệu quả. Cũng
như Paris, Barcelona là “Tháp Babel”, là thành phố toàn cầu, thành phố của toàn
thể nhân loại, nơi con người hào hứng sống và lao động; nơi, lần đầu tiên sau
Nội chiến, các nhà văn Tây Ban Nha và Mĩ Latin hoà nhập với nhau, kết nghĩa với
nhau, công nhận nhau là những người có cùng một truyền thống và liên kết với
nhau trong cùng một sự nghiệp và niềm tin: giờ cáo chung của chế độ độc tài đã
điểm và trong đất nước Tây Ban Nha dân chủ văn hoá sẽ giữa vai trò chủ đạo.
Mặc dù không xảy ra đúng
như thế, nhưng quá trình chuyển hoá Tây Ban Nha từ độc tài sang dân chủ là một
trong những câu chuyện hay nhất trong thời hiện đại, là một thí dụ điển hình về
việc lương tri và lí trí đã thắng thế và các đối thủ về mặt chính trị vì lợi
ích chung đã gác sang một bên chủ nghĩa bè phái, đấy là những sự kiện kì diệu
chẳng khác gì những sự kiện trong tiểu thuyết của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo
vậy. Quá trình chuyển hoá Tây Ban Nha từ độc đoán sang tự do, từ kém phát triển
đến thịnh vượng, từ những bất bình đẳng và khác biệt giàu nghèo về kinh tế đặc
trưng cho Thế giới Thứ ba sang đất nước của các tầng lớp trung lưu, việc nước
này hội nhập vào châu Âu và chỉ trong vài năm đã tiếp thu được nền văn hoá dân
chủ đã làm cả thế giới phải ngạc nhiên và thúc đẩy quá trình hiện đại hoá Tây
Ban Nha. Đối với tôi, trải nghiệm tất cả chuyện đó với khoảng cách gần, đôi khi
ngay từ bên trong, là một câu chuyện rất xúc động và là một bài học khó quên.
Tôi nhiệt liệt tin tưởng rằng chủ nghĩa dân tộc – bệnh dịch khó chữa của thế
giới cũng như của Tây Ban Nha – không thể nào phá huỷ được câu chuyện cổ tích
có hậu này.
Tôi khinh thường chủ nghĩa
dân tộc dưới mọi hình thức, đấy là một hệ tư tưởng quê mùa – hay đúng hơn, đấy
là một tôn giáo – thiển cận, biệt phái, nó thu hẹp các chân trời tri thức và
che dấu trong lòng nó những thành kiến phân biệt sắc tộc và chủng tộc, vì nó
biến một sự kiện hoàn toàn ngẫu nhiên là nơi sinh của người ta thành giá trị
cao nhất, thành ưu thế về mặt đạo đức và bản thể. Cùng với tôn giáo, chủ nghĩa
dân tộc là nguyên nhân của những vụ tàn sát đẫm máu nhất trong lịch sử, như hai
cuộc thế chiến hay những vụ tàn sát đang diễn ra ở Trung Đông hiện nay. Chủ
nghĩa dân tộc là nguyên nhân chính gây ra sự chia rẽ ở Mĩ Latin và những vụ tắm
máu trong những cuộc chiến tranh và cãi cọ vô nghĩa lí, phung phí những nguồn
lực cực kì to lớn cho việc mua sắm vũ khí, thay vì xây dựng trường học, thư
viện và bệnh viện.
Chúng ta không được lẫn
lộn giữa chủ nghĩa dân tộc mù quáng và việc không chấp nhận những người thuộc
dân tộc khác của nó, đấy luôn luôn là hạt giống của bạo lực, với chủ nghĩa yêu
nước, cùng tình yêu tha thiết với vùng đất nơi ta sinh ra, nơi cha ông ta đã
sống, nơi những giấc mơ đầu đời của ta đã hình thành, tình yêu với phong cảnh
quen thuộc của vùng đất, với những người thân thương của ta và yêu những sự
kiện đã biến thành tấm biển chỉ đường của kí ức và bảo vệ chống lại sự cô đơn.
Quê hương không phải là những là cờ, không phải là những bài quốc ca hay những
bài diễn văn không chê vào đâu được về những người anh hùng không tì vết mà là
một vài vùng đất và một ít người nằm trong kỉ niệm của chúng ta và làm cho kỉ
niệm của ta nhuốm vẻ u hoài, hâm nóng tình cảm của ta dù ta đang ở bất kì đâu,
đấy là ngôi nhà mà ta có thể trở về bất cứ lúc nào.
Đối với
tôi Peru là Arequipa , nơi tôi sinh ra
nhưng tôi không sống ở đấy ngày nào. Đấy là thành phố mà tôi đã biết thông qua
những câu chuyện đầy hoài niệm của mẹ tôi, ông bà tôi, chú bác cô dì
tôi vì cà dòng họ tôi, như những người Arequipa chân chính, bao giờ cũng mang
theo Thành phố Trắng trong cuộc đời nay đây mai đó của họ. Đấy là Piura, nằm
giữa hoang mạc, với những bụi cây mequite và những con lừa phải thồ trên lưng
những món hàng nặng nề, khi tôi còn trẻ người Piura thường gọi chúng bằng một
cái tên đáng yêu nhưng hơi buồn là “chân phụ”, nơi tôi biết rằng trẻ em không
phải do cò mang về mà do những đôi tình nhân tạo ra, đấy là khi họ làm những
việc kinh khủng, bị nhà thờ coi là tội lỗi. Đấy là trường San Miguel và nhà hát
Varieties, nơi lần đấu tiên tôi thấy vở kịch ngắn của mình được đưa
lên sân khấu. Đấy là ngã tư phố Diego Ferré và Colón ở khu Miraflores của Lima – chúng tôi gọi
là Khu sung sướng – nơi tôi chuyển từ quần đùi sang quần dài, nơi tôi hút điếu
thuốc đầu tiên, nơi tôi học nhảy, yêu và mở lòng mình với các cô gái. Đấy là
một thành phố đầy bụi, với toà soạn báo La Crónica lúc nào cũng sôi lên sùng
sục, nơi, khi mới mười sáu tuổi tôi đã cầm trong tay phương tiện chiến đấu đầu
tiên của mình. Đấy là ngày tôi đã trở thành một nhà báo, một nghề, cùng với văn
chương đã đi cùng tôi hầu như suốt cuộc đời, và cũng như những cuốn sách, đã
làm cho tôi sống trọn vẹn hơn, hiểu biết thế giới kĩ lưỡng hơn, tạo điều kiện
cho tôi gặp gỡ cả đàn ông lẫn đàn bà trên khắp thế giới và thuộc mọi giai cấp,
tuyệt vời có, tốt có, xấu có, kinh khủng cũng có. Đấy là học viện quân sự mang
tên Leoncio Prado, ở đấy tôi biết rằng Peru, nơi tôi có cuộc sống tù túng và an
toàn, không phải là một tiền đồn nhỏ bé của giai cấp trung lưu mà là một đất
nước to lớn, xưa cũ, đấy chia rẽ và bất công, đang bị rúng động bởi những nhiễu
loạn xã hội. Đấy là những nhóm bí mật của tổ chức Cahuide – với một ít sinh
viên của trường San Marcos –
nơi chúng tôi chuẩn bị làm cách mạng thế giới. Peru còn là những người bạn
của tôi trong Phong trào Tự do, suốt ba năm ròng, giữa tiếng bom đạn, trong đêm
tối vì bị cắt điện và những vụ giết người vì động cơ chính trị, chúng tôi đã
cùng với họ chiến đấu nhằm bảo vệ nền dân chủ và văn hoá của tự do.
Nhưng xin quay trở lại với
văn chương. Thiên đường tuổi thơ của tôi không phải là những huyền thoại trong
sách vở mà là hiện thực mà tôi đã sống và đã được tận hưởng trong một ngôi nhà
lớn có đến ba cái sân của gia đình ở Cochabamba, nơi tôi cùng với những người
anh em họ và lũ bạn học bắt chước các nhân vật trong truyện Tarzan và Salgari,
và trong huyện Piura, với những chú dơi làm tổ trên gác xép, đấy là những cái
bóng câm lặng làm cho những đêm hè đầy sao của vùng đất nóng nực này càng thêm
huyền bí. Trong những năm tháng đó, viết là một trò chơi được gia đình tôi
khuyến khích, là công việc hấp dẫn, mang lại cho tôi – trong vai một đứa cháu,
một đứa con mồ côi cha vì cha tôi đã mất và đã lên thiên đường rồi
- những tràng pháo tay. Cha tôi là một người cao lớn, đẹp trai, ảnh
chụp khi ông mặc quân phục hải quân là vật trang trí không thể thiếu trên cái
bàn nhỏ trong phòng ngủ của tôi: bao giờ tôi cũng cầu nguyện và hôn những bức
ảnh này trước khi đi ngủ. Một buổi sáng nọ, khi còn ởPiura, mẹ tôi thú nhận
rằng người đàn ông trong ảnh thực ra vẫn còn sống – tôi nghĩ là hiện nay vết
thương lòng của tôi vẫn chưa khỏi hẳn. Và ngày hôm đó chúng tôi phải đến Lima để sống cùng
với ông. Lúc đó tôi vừa tròn mười một tuổi và mọi chuyện thay đổi từ đấy. Tôi
đánh mất tính ngây thơ và biết thế nào là nỗi cô đơn, uy quyền, cuộc sống của
người lớn và nỗi sợ hãi. Đọc là sự cứu rỗi của tôi, đọc những cuốn sách hay,
trốn vào những thế giới nơi có cuộc đời huy hoàng, đầy ắp các sự kiện, hết cuộc
phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác, đấy là nơi tôi lại cảm thấy được tự do và
hạnh phúc. Và tôi viết, viết một cách bí mật, như thể đang làm một công việc
xấu xa không thể nói thành lời, như thể đang theo đuổi một niềm đam mê bị xã
hội cấm đoán vậy. Văn chương không còn là trò chơi nữa. Nó đã trở thành phương
tiện nhằm chống lại nghịch cảnh, phương tiện phản kháng, bạo loạn, phương tiện
giúp tôi chạy trốn khỏi những điều không thể chịu đựng nổi, trở thành ý nghĩa
của cuộc đời. Từ đó đến nay, mỗi khi ngã lòng hay cảm thấy chán nản, cảm thấy
tuyệt vọng, tôi đều lao vào công việc của một người viết truyện, đấy là ánh
sáng cuối đường hầm của tôi, là tấm ván giúp người thuỷ thủ trên chiếc tàu đắm
bơi được đến bờ.
Mặc dù đấy là công việc
cực kì khó khăn, làm tôi đổ mồ hôi sôi nước mắt, và cũng như tất cả
các nhà văn khác, đôi khi tôi cảm thấy mình sắp bị tê liệt, bị khô kiệt trí
tưởng tượng, thì không có gì lí thú như những năm tháng xây dựng cốt truyện, từ
những khởi đầu không lấy gì làm chắc chắn, từ cái kho hình ảnh lưu giữ những
trải nghiệm trong cuộc đời, những trải nghiệm trở thành sống động, thành giấc
mơ giữa ban ngày, tạo ra cành nhánh cho dự án và thành quyết định biến đám mây
hỗn loạn của ảo ảnh thành câu chuyện. “Viết là một cách sống”, Flaubert đã nói
như thế. Vâng hoàn toàn đúng, một cách sống với những ảo tưởng và niềm vui và
đốm lửa loé sáng trong đầu óc bạn, là sống với cuộc chiến đấu cùng những từ ngữ
cứng đầu cứng cổ trước khi bạn làm chủ được chúng, là sống với cuộc thám hiểm
thế giới rộng lớn tương tự như người thợ săn đi theo con mồi để có thể nuôi
dưỡng ý tưởng vừa mới hình thành và chinh phục sự ham muốn quá độ của mỗi câu
chuyện vì khi phát triển, mỗi câu chuyện này đều muốn ăn tươi nuốt sống tất cả
những câu chuyện khác. Khi vừa cảm thấy sự mất thăng bằng do việc thai nghén
tác phẩm tạo ra và sau đó, khi tác phẩm đã có hình hài và dường như có thể bắt
đầu sống bằng cuộc sống của mình, với các nhân vật có thể đi lại, hành động,
suy nghĩ, cảm giác và đòi phải được tôn trọng, những nhân vật mà ta không còn
có thể áp đặt một cách tuỳ tiện các hành vi được nữa hoặc tước bỏ quyền tự do
của chúng nếu không giết chết chúng, không làm cho câu chuyện mất tính thuyết
phục – hôm nay trải nghiệm này tiếp tục làm tôi mê mẩn như thuở ban đầu, vẫn
tròn đầy và vẫn ngây ngất như thể bạn đang làm tình với người đàn bà yêu dấu
suốt ngày, suốt tuần, suốt tháng không nghỉ vậy.
Nói về văn chương, tôi đã
dành nhiều thời gian cho tiểu thuyết mà nói quá ít về kịch nghệ, một hình thức
quan trọng khác của nó. Như thế là rất không công bằng, dĩ nhiên rồi. Kịch là
mối tình đầu của tôi, tình yêu đó hình thành trong tôi ngay từ khi mới lớn, từ
khi tôi được xem vở Cái chết của người bán hàng của Arthur
Miller ở nhà hát Segura ở Lima, một vở diễn đã để lại trong tôi quá nhiều tình
cảm và thúc đẩy tôi viết một vở kịch về người Inca. Nếu trong những năm 1950
ở Lima mà
có một phong trào kịch nghệ thì tôi có lẽ đã trở thành người soạn kịch chứ
không trở thành tiểu thuyết gia như bây giờ. Không có một phong trào như thế và
điều đó chắc chắn đã đẩy tôi ngày càng đi xa hơn vào con đường sáng tác văn
xuôi. Nhưng tình cảm của tôi với nhà hát vẫn không bao giờ chấm dứt: nó vẫn
thiu thiu ngủ, vẫn ẩn mình trong cái bóng của những cuốn tiểu thuyết của tôi,
tương tự như sự cám dỗ và lòng hoài niệm mỗi khi tôi được xem một vở kịch làm
mê hoặc lòng người. Cuối những năm 1970, khi kỉ niệm về một bà bác họ sống đến
một trăm tuổi, những năm cuối đời bà đã cắt đứt tất cả các mối liên hệ với thế
giới xung quanh để có thể an trú vào những kỉ niệm và trí tưởng tượng của chính
mình, đã thúc đẩy tôi viết lại câu chuyện này. Tôi cảm thấy rằng đây là một câu
chuyện dành cho nhà hát, rằng chỉ có sân khấu mới có thể thể hiện được hết sinh
khí và sự lộng lẫy của những hình tượng rất thành công này mà thôi. Tôi viết vở
kịch này với cảm giác hồi hộp của một người mới vào nghề và sau đó đã rất vui
khi được xem Norma Aleandro đóng vai nhân vật chính trong vở kịch này đến nỗi
tôi đã quay lại thể loại này vài lần, đấy là những quãng ngắt giữa những cuốn
tiểu thuyết và truyện ngắn của tôi. Tôi phải nói thêm: tôi không bao giờ nghĩ
rằng ở tuổi bảy mươi mình lại bước lên sân khấu (tôi sẽ vấp ngã mất thôi) và
diễn như một diễn viên. Một cuộc phiêu lưu táo bạo như thế sẽ cho tôi lần đầu
tiên cảm thấy bằng da bằng thịt điều kì diệu đối với một người suốt đời viết
những câu chuyện hư cấu về con người được tái hiện trong một vài giờ nhân vật
tưởng tượng, được sống cuộc đời hư cấu trước mặt khán giả. Tôi không thể nào
nói hết được lòng biết ơn của tôi với những người bạn tốt, với đạo diễn Joan
Ollé và nữ diễn viên Aitana Sánchez Gijón, những người đã động viên để tôi được
chia sẻ với họ trải nghiệm không thể nào tưởng tượng nổi này (mặc dù lúc đó tôi
rất run).
Văn chương là hình ảnh không thật về cuộc đời, nhưng nó lại giúp ta
hiểu cuộc đời một cách tốt hơn, giúp ta định hướng trong cái mê hồn trận nơi ta
ra đời, ta đi qua và chết. Nó bù đắp những nghịch cảnh và thất vọng mà cuộc
đời thực giáng xuống đầu ta, nhờ văn chương mà chúng ta có thể giải mã được –
ít nhất là phần nào – cái bí ấn mà tuyệt đại đa số vẫn mường tượng mỗi khi nghĩ
vể cuộc sinh tồn của chúng ta, trước hết là đối với những người cảm luôn thấy
nghi ngờ nhiều hơn là tin tưởng, những người công nhận rằng chúng cảm thấy bối
rối trước những câu hỏi như sự siêu nghiệm, số phận của cá nhân và của cả cộng
đồng, tâm hồn, lịch sử có ý nghĩa hay là chẳng có ý nghĩa gì, kiến thức có ích
hay có hại.
Mỗi khi tưởng tượng cái
hoàn cảnh chẳng lấy gì làm chắc chắn của tổ tiên chúng ta là bao giờ tôi cũng
cảm thấy bàng hoàng - chẳng khác giống vật là bao, ngôn ngữ giúp họ
giao tiếp với nhau vừa mới hình thành – họ ngồi trong hang đá, xung quanh những
đống lửa, giữa đêm đen với những ánh chớp, tiếng sét và tiếng gầm rú đầy đe dọa
của các loài mãnh thú – họ bắt đầu nghĩ ra và kể cho nhau nghe những câu
chuyện. Đấy là giây phút có tính quyết định trong số phận của chúng ta vì nền
văn minh bắt đầu từ những người bán khai được giọng nói và trí tưởng tượng của
những người kể chuyện tụ tập thành các nhóm như thế – con đường đưa chúng ta
tiến dần thành người và dẫn chúng ta tới ý tưởng về sự độc lập của các cá nhân,
sau đó là tách cá nhân ra khỏi bộ lạc, phát minh ra khoa học, nghệ thuật, luật
pháp, quyền tự do, và nghiên cứu những tầng sâu kín nhất của thiên nhiên, của
cơ thể con người, của vũ trụ và bay lên tận các vì sao là con đường rất dài.
Đối với các thính giả đang cảm thấy hỏang sợ trước những bí mật và hiểm họa của
cái thế giới mà mọi thứ đều xa lạ và nguy hiểm thì những câu chuyện cổ tích,
truyện ngụ ngôn, huyền thọai và truyền thuyết đó nghe chẳng khác gì một khúc
nhạc mới, chắc chắn nó đã là dòng nước mát, là hồ nước tĩnh lặng dành cho những
tâm hồn luôn luôn cảnh giác, những người mà tồn tại đơn thuần chỉ là ăn, tìm
trỗ trú ẩn, giết và làm tình. Từ đó, nhờ sự thúc đẩy của những người kể chuyện,
người ta bắt đầu cùng nhau mơ ước, chia sẻ với nhau những giấc mơ, họ không còn
bị trói buộc vào những công việc tẻ nhạt chỉ nhằm duy trì cuộc sống, không còn
bị trói buộc vào vòng xóay của những nhiệm vụ chỉ làm con người ngày càng trở
thành hung bạo hơn nữa. Cuộc đời họ đã trở thành một giấc mơ, thành niềm vui, thành
trí tưởng tượng và dự định mang tính cách mạng: phá bỏ các giới hạn, thay đổi
và cải tiến, đấu tranh nhằm đáp ứng các nhu cầu và tham vọng đang sục sôi trong
cuộc đời mà họ mường tượng và trí tò mò, ước muốn mở toang những bí ẩn còn vây
xung quanh họ.
Cái quá trình không bao
giờ bị gián đoạn này lại được chữ viết làm cho phong phú thêm và những câu
chuyện, bây giờ không chỉ được nghe mà còn được đọc, trở thành văn chương,
nghĩa là trở thành vĩnh cửu. Đấy là lí do vì sao phải nhắc đi nhắc lại cho đến
khi thế hệ mới nhận thức được điều đó: văn chương không chỉ là giải trí, không
chỉ là bài tập của trí não, nhằm mài sắc cảm giác và đánh thức tinh thần phê
phán. Nó là thành tố tuyệt đối cần thiết cho chính sự tồn tại của nền văn minh,
nó tái tạo và giữ lại những đặc điểm tuyệt vời nhất của giống người trong mỗi
chúng ta. Để chúng ta không rơi trở lại tình trạng dã man của sự cách li và
cuộc đời không bị rút xuống thành chủ nghĩa thực dụng của các chuyên gia, tức
là những người nhìn thấu suốt sự vật nhưng lại bỏ qua những thứ xung quanh,
những thứ có trước và những thứ đến sau các sự vật đó. Để chúng ta – sau khi
phát minh ra máy móc phục vụ chúng ta – không biến thành những đầy tớ và nô lệ
cho những cỗ máy đó. Và vì thế giới không có văn chương là thế giới không có
khát vọng, không có lí tưởng hay thế giới của sự bất kính, thế giới của những
người máy bị tước đoạt tất cả những gì làm nên con người: khả năng đặt mình vào
vị trí của người khác, vào vị trí của những người khác. Đấy chính là khả năng
được sinh ra từ những giấc mơ của chúng ta.
Từ hang đá đến tòa nhà
chọc trời, từ cây gậy đến vũ khí giết người hàng loạt, từ cuộc sống đơn điệu
của bộ lạc đến kỉ nguyên toàn cầu hóa, văn chương đã làm cho trải nghiệm của
con người gia tăng gấp bội, ngăn chặn, không để cho chúng ta rơi vào trạng thái
thờ ơ, bàng quan và nhẫn nhục. Chẳng có gì có thể gieo rắc được nhiều băn
khoăn, chẳng có gì có thể làm rối loạn trí tưởng tượng và khát vọng của chúng
ta như là cuộc đời của những điều bịa đặt mà chúng ta, nhờ có văn chương, đã
gán ghép thêm vào cuộc đời thực mà chúng ta đang sống, để chúng ta có thể trở
thành vai chính trong những cuộc phiêu lưu vĩ đại, trong những đam mê mà cuộc
đời thực không thể ban cho chúng ta. Thông qua chúng ta, những điều bịa đặt
trong văn chương lại trở thành sự thật, chúng ta là những độc giả đã được
chuyển hóa, đã bị nhiễm những khát vọng, và qua những điều bịa đặt của văn
chương mà luôn nghi ngờ cái hiện thực màu xám của cuộc đời. Văn chương trở
thành phép màu khi nó tặng cho ta hi vọng sở hữu cái mà chúng ta không có,
thành người mà chúng ta không là, sống cuộc đời chưa ai từng sống, trong đó,
cũng giống như các vị thần của người ngoại đạo, chúng ta cảm thấy mình vừa là
những kẻ hữu sinh hữu tử, lại vừa trường sinh bất lão, nó đưa vào tâm hồn chúng
ta tinh thần phản kháng, không chấp nhận gió chiều nào che chiều ấy, đấy là nền
tảng của tất cả những sự nghiệp anh hùng góp phần vào việc làm giảm nhẹ tính
chất thô bạo trong quan hệ giữa người với người. Chỉ giảm chứ không thể nào
chấm dứt được vì đáng tiếc là ý chí của chúng ta là một câu chuyện không có hồi
kết. Đấy là lí do vì sao chúng ta phải tiếp tục ước mơ, tiếp tục đọc và tiếp
tục viết – đấy là biện pháp tốt nhất giúp làm nhẹ bớt gánh nặng của cuộc đời
hữu sinh hữu tử của chúng ta, giúp chiến thắng sự gậm nhấm của thời gian và
biến cái không thể trở thành có thể./.
Dịch giả gửi Văn Việt
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét