Thứ Bảy, 8 tháng 11, 2014

Số liệu sản lượng hàng không sân bay Tân Sơn Nhất đã được thổi phồng

05-11-2014
GS Nguyễn Thiện Tống

Dự báo sản lượng hàng không cho sân bay Long Thành đến năm 2050 chỉ dựa vào số liệu 15 năm phát triển ban đầu của sân bay Tân Sơn Nhất từ năm 1995 đến 2009 mà độ chính xác và tin cậy rất đáng ngờ.

Sản lượng hàng không của Tân Sơn Nhất năm 2013 không thể trên 20 triệu khách như số liệu của ACV. Nguồn ảnh minh họa: vnas.vn
Những phân tích sau dựa vào số liệu trong niên giám Thống kê (NGTK) của cục Thống kê TP.HCM và số liệu 100 sân bay đông khách nhất thế giới năm 2011 có thể dẫn đến kết luận rằng số liệu về sản lượng hàng không của sân bay Tân Sơn Nhất (TSN) đã được thổi phồng để tuyên truyền về tình trạng “quá tải” của nó và dự báo “nhu cầu ảo” rất lớn trong tương lai cho sân bay Long Thành.

Sai số giữa cục Thống kê TP.HCM và của ACV

Số liệu về sản lượng hàng không của TSN trong NGTK của cục Thống kê TP.HCM từ 2005 đến 2012 khác xa số liệu của tổng công ty cảng hàng không Việt Nam (ACV) được sử dụng trong Báo cáo đầu tư dự án xây dựng cảng hàng không quốc tế Long Thành.

Hành khách tại sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất. Ảnh: ebay.vn
NGTK cho số liệu về số lượng chuyến bay (cất/hạ cánh), số lượng hành khách và trọng lượng hàng hóa qua TSN mà chúng được phân chia làm hai loại theo hãng hàng không quốc tế và theo hãng hàng không Việt Nam, rồi ở mỗi loại lại chia ra theo chuyến bay quốc tế và chuyến bay nội địa. Từ số liệu này số lượng chuyến bay quốc tế của hãng hàng không quốc tế được cộng với số lượng chuyến bay quốc tế của hãng hàng không Việt Nam để có tổng số chuyến bay quốc tế. Số lượng chuyến bay nội địa của hãng hàng không quốc tế được cộng với số lượng chuyến bay nội địa của hãng hàng không Việt Nam để có tổng số chuyến bay nội địa.
Tương tự như vậy, số lượng hành khách bay quốc tế của hãng hàng không quốc tế được cộng với số lượng hành khách bay quốc tế của hãng hàng không Việt Nam để có tổng số lượng hành khách bay quốc tế. Số lượng hành khách bay nội địa của hãng hàng không quốc tế được cộng với số lượng hành khách bay nội địa của hãng hàng không Việt Nam để có tổng số lượng hành khách bay nội địa. Tổng số lượng hàng hóa bay quốc tế và tổng số lượng hàng hóa bay nội địa cũng được tính toán tương tự.

Tính toán dự báo theo số liệu về sản lượng hàng không của TSN trong NGTK từ 2005 đến 2012 thì năm 2015 số chuyến bay sẽ là 89.800, số hành khách sẽ là 11,5 triệu lượt người và số lượng hàng hóa sẽ là 301.900 tấn. Như thế TSN không “quá tải” như ACV - chủ đầu tư dự án sân bay Long Thành - tuyên truyền.

Dự án sân bay Long Thành đã được manh nha vào khoảng năm 2000 khi mà sản lượng hàng không của TSN chỉ là 3,9 triệu khách/năm. Đến năm 2004, ông Nguyễn Nguyên Hùng, tổng giám đốc cụm cảng hàng không Miền Nam lúc ấy cho biết rằng sân bay Long Thành sẽ được xây dựng trên diện tích 5.000 ha, vốn đầu tư 4,5 tỷ USD, năng suất 80 triệu lượt khách/năm và năm 2015 sân bay Long Thành sẽ được đưa vào khai thác từng phần song song với sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất.

Kể từ 2005 đến nay số liệu về sản lượng hàng không của TSN của ACV càng ngày càng khác xa số liệu trong NGTK của cục Thống kê TP.HCM.

Trong Báo cáo đầu tư dự án xây dựng cảng hàng không quốc tế Long Thành, bảng số liệu chỉ cung cấp số hành khách, số lượng hàng hóa thực tế cho các năm 1995, 2000, 2007, 2008, 2009 mà số liệu năm 2009 là ước tính vì báo cáo đầu tư dự án đang được soạn thảo trong năm đó. Sau đây là số liệu trích lại từ báo cáo đầu tư dự án với số liệu cho năm 2010 và 2015 là dự báo.   

Đến nay số liệu sản lượng hàng không của TSN của ACV có thể tìm được cho các năm 2011, 2012, 2013 để lập bảng sau:
Khi so sánh số liệu của ACV với số liệu từ NGTK thì chúng khác biệt rất lớn. Năm 2000, sự khác biệt về tổng hành khách chỉ 1%, năm 2007 số liệu của ACV lớn gấp 1,24 lần so với NGTK và tỷ lệ này tăng nhanh đến năm 2012 là 1,82 lần. Về hành khách bay quốc tế, năm 2007 số liệu của ACV lớn gấp 1,22 lần của NGTK và tăng nhanh đến năm 2012 là 2,23 lần.

Sự khác biệt quá lớn này chỉ có thể được giải thích bằng cách xác định ai đúng ai sai mà thôi.

Số liệu về sản lượng hàng không của TSN trong NGTK đáng tin cậy hơn vì chúng được công bố trên 20 năm qua và được cục Thống kê TP.HCM thực hiện một cách chuyên nghiệp và khách quan. Còn số liệu của ACV lại rất đáng nghi ngờ, nhất là vì động cơ ACV muốn ngụy tạo tình trạng “quá tải” của TSN và dự báo nhu cầu lớn trong tương lai cho Long Thành.

Điều đáng lưu ý là trong tháng 11/2013, đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM có báo cáo gửi Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải về kiến nghị của cử tri thành phố muốn mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất, chưa xây sân bay Long Thành, trong đó có nêu: “Cử tri cho rằng, số liệu thống kê về sản lượng sân bay Tân Sơn Nhất của thống kê thành phố thấp hơn số liệu của bộ Giao thông vận tải, và nếu số liệu (của bộ) quá cao mà không chính xác thì khả năng lỗ rất cao và hoàn vốn chậm. Cử tri đề nghị cần có một cơ quan thống kê độc lập tính toán hệ số tăng trưởng thật chính xác, nhằm tránh lãng phí lớn khi xây dựng cảng hàng không quốc tế Long Thành”.
Đường băng tại cảng hàng không sân bay Tân Sơn Nhất - Ảnh: T.L
Nghi vấn rất quan trọng này chẳng những không được Bộ Giao thông vận tải làm sáng tỏ mà cục Thống kê TP.HCM còn bị áp lực để công bố số liệu về sản lượng hàng không TSN trong NGTK năm 2013 giống như của ACV.
Số liệu mới này trong NGTK 2013 chỉ có 9 dòng so với 21 dòng trong NGTK TP.HCM ở các năm trước. Trong bảng số liệu mới này, số liệu cho các năm 2005, 2010, 2011, 2012 cũng được điều chỉnh cho giống như của ACV mà chúng khác hẳn với các số liệu cũ đầy đủ thông tin hơn trong các NGTK trước của cục Thống kê TP.HCM.

Sản lượng hàng không năm 2011: Không thể đến 16,7 triệu khách

Trong danh sách 100 sân bay đống khách nhất thế giới năm 2011 do hiệp hội Cảng hàng không quốc tế (Airports Council International) công bố mà sân bay thứ 100 có sản lượng hành khách là 14 triệu khách, không có tên sân bay Tân Sơn Nhất.

Danh sách 10 sân bay cuối trong 100 sân bay đông khách nhất thế giới năm 2011:

Theo NGTK sản lượng TSN năm 2011 là 9,4 triệu khách nên TSN không có trong danh sách đó là hợp lý. Nhưng theo ACV sản lượng hàng không của TSN năm 2011 là 16,7 triệu khách, một con số rất lớn, lớn hơn sản lượng của 10 sân bay cuối trong danh sách 100 sân bay đông khách nhất đó.
Rõ ràng là TSN không thể nào đông khách hơn những sân bay như Sao Paulo và Rio de Janeiro ở Brasil, Fukuoka ở Nhật Bản, Helsinki ở Phần Lan, Lisbon ở Bồ Đào Nha, Athens ở Hy Lạp, Auckland ở New Zealand.

Như thế sản lượng hàng không của TSN năm 2011 không thể lớn đến mức 16,7 triệu khách như số liệu của ACV, mà phải ít hơn mức 14 triệu khách của sân bay Auckland.

Sản lượng hàng không năm 2013: Không thể trên 20 triệu khách

Tính toán từ số liệu về sản lượng hàng không của TSN của ACV cho thấy tốc độ gia tăng trung bình số hành khách trong 6 năm từ 2007 đến 2013 là 11,8%, tương đối lớn khi so với tốc độ gia tăng của các sân bay Hồng Kông là 4%, Singapore là 6,5%, Bangkok là 2,3%, Kuala Lumpur là 10,2%.

Tính toán từ số liệu về sản lượng hàng không của TSN trong NGTK từ 2005 đến 2012 cho thấy thấy tốc độ gia tăng trung bình số hành khách là 4,9% mỗi năm, tương đối vừa phải so với mức trung bình chung là 6% của các sân bay trong khu vực trong cùng thời gian.

Khi số liệu về sản lượng của TSN trong NGTK từ 1995 đến 2012 là đúng thì số hành khách năm 2011 chỉ là 9,4 triệu khách và với tốc độ gia tăng trung bình hàng năm là 5% thì năm 2013 số hành khách chỉ trên 10 triệu khách thôi chứ không thể trên 20 triệu khách như số liệu của ACV.

PGS.TS Nguyễn Thiện TốngTS kỹ thuật hàng không đại học Sydney - Úc (1974); thạc sĩ quản trị hành chánh công đại học Harvard - Mỹ (1994); nguyên chủ nhiệm bộ môn kỹ thuật hàng không đại học Bách khoa TP.HCM.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét