Rất nhiều người ở Việt Nam tin rằng cách bảo vệ đất nước tốt
nhất là thoát Trung, bằng cách tiến hành những cải cách thể chế “thay đổi cục
diện” – vốn dĩ cần thiết để giành được sự ủng hộ của khu vực và quốc tế. Những
cải cách đó bao gồm cả cam kết thực thi nhà nước pháp quyền, thực thi các sửa đổi
hiến pháp căn bản, và làm cho Việt Nam phù hợp một cách nhanh chóng và thực chất
với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền mà chính Nhà nước Việt Nam đã cam kết.
Vài giải pháp cho Việt Nam
Những hỗn loạn và bạo lực bùng nổ ở Việt Nam cách đây hai tuần
đã hút sự quan tâm của thế giới khỏi các nguyên nhân căn bản của căng thẳng giữa
Trung Quốc và Việt Nam, và thật ra là giữa Trung Quốc và khu vực. Về bản chất,
chúng xuất phát từ yêu sách vô căn cứ pháp lý của Bắc Kinh, đòi chủ quyền đối với
hơn 80% biển của khu vực, và từ ý đồ của Bắc Kinh nhằm áp đặt tính chính đáng
cho các yêu sách đó thông qua các biện pháp vũ lực.
Trên bình diện quốc tế, việc Bắc Kinh cho quân đội canh giữ
giàn khoan dầu khổng lồ của họ trong vùng biển tranh chấp được hiểu là một hoạt
động mang tính chính trị, nhằm thay đổi hiện trạng ở Đông Á. Còn đối với Việt
Nam, hành động của Bắc Kinh buộc giới lãnh đạo Việt Nam phải suy nghĩ lại một
cách cơ bản về tầm nhìn chiến lược của họ – một công việc vừa nguy hiểm vừa
mang lại cơ hội. Hiện tại, lãnh đạo Việt Nam đối mặt với ba thách thức.
Thách thức thứ nhất là dọn dẹp và tái thiết, để giải quyết
và vượt qua những hậu quả còn tồn đọng của các cuộc bạo loạn hai tuần trước. Rất
cần phải nhấn mạnh rằng nguyên nhân chính xác của vụ hỗn loạn vẫn chưa được xác
định, và trên thực tế, nguyên nhân đó có vẻ khác nhau tùy theo ba nơi xảy ra biến
cố. Cũng cần phải lưu ý rằng bạo loạn xảy ra ở ba tỉnh chứ không phải 21, như
nhiều nơi đã đưa tin sai. Chết chóc, thương tật, và thiệt hại như xảy ra đã
không có lợi chút nào cho hình ảnh Việt Nam. Và những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm
gia tăng áp lực, thông qua các biện pháp chính trị, kinh tế và quân sự, cũng vậy.
Liên quan đến các vụ bạo loạn, khó khăn lớn nhất của Hà Nội
là mở rộng điều tra và đưa ra được một cách giải thích rõ ràng về nguyên nhân
gây bạo loạn, tiến hành bồi thường nhanh chóng, và bằng mọi cách cần thiết, thể
hiện cho toàn thế giới thấy tại Việt Nam vẫn sẽ là một môi trường đầu tư hấp dẫn.
Người ta có thể hy vọng là những việc làm cụ thể theo hướng này đang được tiến
hành.
Căn bản hơn, người dân Việt Nam đang đối diện với những quyết
định về tương lai của đất nước. Trên thực tế, có hai nhóm câu hỏi khác nhau
nhưng có liên quan đến nhau. Thứ nhất là nhóm các câu hỏi về những chiến thuật
mà Việt Nam nên sử dụng để đáp lại lối hành xử của Bắc Kinh. Thứ hai là nhóm
các câu hỏi về tầm nhìn chiến lược xa hơn của Việt Nam, các mối quan hệ và các
điều kiện mà nước này cần để có thể sống trong hòa bình, thịnh vượng, và an
ninh trong những năm tới và thập kỷ tới.
Việc Hà Nội phản ứng với Bắc Kinh một cách thận trọng và
thăm dò là điều có thể thấy trước, khi mà sức mạnh của hai bên không cân xứng
và thực tế là Việt Nam hiện tại không có đồng minh. Có quá ít lựa chọn, lãnh đạo
Việt Nam cho thấy – ngày càng rõ ràng hơn – rằng họ không chấp nhận các yêu
sách của Trung Quốc, và họ sẽ phản ứng chỉ bằng các biện pháp ngoại giao và
pháp lý. Mặc dù mọi nước đều có quyền tự vệ, nhưng Việt Nam đã đúng khi nhấn mạnh
yêu cầu phải tránh đối đầu quân sự. Quân sự hóa xung đột sẽ chỉ gây ra thất bại.
Nếu không có một đột phá về mặt ngoại giao thì theo quan điểm
của chúng tôi, Hà Nội nên tiến hành ba bước sau đây:
1. Trước tiên, Hà Nội nên đề nghị Tòa án Quốc tế về UNCLOS
ra một phán quyết rằng mọi cấu trúc tự nhiên trên biển Hoa Nam đều là đá và như
vậy thì chỉ được hưởng 12 hải lý lãnh hải. Trong trường hợp đó, phần biển còn lại
trong khu vực (trừ các vùng đặc quyền kinh tế – EEZ – của các nước) sẽ đều có
quy chế của biển quốc tế. Yêu sách của Bắc Kinh, cho rằng quần đảo Paracel [tức
là Hoàng Sa trong tiếng Việt] (mà họ chiếm đóng trái phép) xứng đáng có vùng đặc
quyền kinh tế 200 hải lý chắc chắn sẽ bị tuyên vô hiệu lực. Điều đó có nghĩa
là, các đảo thuộc quần đảo Paracel mà hiện tại đang bị Bắc Kinh kiểm soát sẽ đều
chỉ có lãnh hải 12 hải lý, và việc triển khai giàn khoan dầu tuần trước và tuần
này sẽ là bất hợp pháp.
2. Thứ hai, Việt Nam nên tham gia vụ kiện của Philippines,
kiện đường 9 đoạn, dựa trên căn cứ rằng không thể có vùng nước lịch sử nào cả,
trừ phi đó là một cái vịnh; mọi yêu sách về chủ quyền trên biển đều phải đặt cơ
sở trên đất.
3. Thứ ba, Hà Nội nên xem xét hủy bỏ tất cả các yêu sách đối
với những cấu trúc đá nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và
Malaysia, và ngồi vào bàn đàm phán, thỏa thuận với các quốc gia ASEAN khác cũng
có yêu sách chủ quyền, để công nhận chủ quyền đối với những cấu trúc đá mà hiện
tại các nước đó đang nắm giữ. Căng thẳng trên biển Hoa Nam chưa hề có dấu hiệu
giảm bớt. Hà Nội và Manila có thể hiện ra rằng họ muốn hữu nghị với Trung Quốc
đặt trên cơ sở tôn trọng, hợp tác, tuân thủ các điều ước quốc tế và thông lệ quốc
tế. Hà Nội và Manila nên đi trước để làm gương, và nên ngay lập tức giải quyết
tranh chấp giữa chính họ với nhau, đồng thời tìm cách kết nối với Malaysia,
Indonesia và các đối tác khác.
Quay trở lại với chuyện tương lai của Việt Nam. Việc căng thẳng
gia tăng trên Biển Đông của Việt Nam đã gây ra một loạt diễn biến, buộc Hà Nội
và thật ra là toàn thể người dân Việt Nam phải đánh giá lại tầm nhìn chiến lược
của nước mình. Rất nhiều người ở Việt Nam tin rằng cách bảo vệ đất nước tốt nhất
là thoát Trung, bằng cách tiến hành những cải cách thể chế “thay đổi cục diện”
– vốn dĩ cần thiết để giành được sự ủng hộ của khu vực và quốc tế. Những cải
cách đó bao gồm cả cam kết thực thi nhà nước pháp quyền, thực thi các sửa đổi
hiến pháp căn bản, và làm cho Việt Nam phù hợp một cách nhanh chóng và thực chất
với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền mà chính Nhà nước Việt Nam đã cam kết.
Mặc dù các bước đi táo bạo đó có thể bị nhiều người cho là bất
khả thi về chính trị, hay nói đơn giản là không thể thực hiện được, nhưng các bạn
hãy dành một phút để nhớ lại rằng, Việt Nam hiện đang đối đầu Trung Hoa một
cách cô độc. Tuy Việt Nam vẫn phải theo đuổi quan hệ hữu nghị với Trung Quốc,
nhưng họ chỉ có thể sống trong an toàn, an ninh, được thế giới tôn trọng và ủng
hộ, mà điều đó chỉ có thể có được nếu các lãnh đạo và nhân dân của họ xây dựng
một tương lai trong đó Việt Nam được độc lập, tự do, và có một trật tự xã hội
dân chủ hơn, minh bạch hơn. Cũng giống như với Myanmar, thế giới có thể ủng hộ
Việt Nam ngay lập tức.
Điều mà Trung Quốc, Việt Nam, và toàn thể khu vực cần là
năng lực lãnh đạo tốt hơn và có trách nhiệm hơn. Từ Đông Bắc Á cho đến Đông Nam
Á, các nhà lãnh đạo của Đông Á phải phối hợp thúc đẩy hòa bình và trật tự trong
khu vực trên cơ sở hợp tác thay vì hăm dọa.
Giới lãnh đạo chính trị Trung Hoa đã liên tục nói về sự “trỗi
dậy hòa bình” của Trung Quốc. Nhưng chỉ có chính họ phải chịu trách nhiệm về việc
Trung Quốc nhanh chóng bị các nước láng giềng trong khu vực căm ghét và làm cho
Mỹ cũng như các siêu cường khác trên thế giới lo ngại. Nếu muốn có hòa bình và
trật tự ở châu Á Thái Bình Dương, Bắc Kinh phải áp dụng các chuẩn mực quốc tế,
phải từ bỏ đường 9 đoạn vô căn cứ pháp lý, và phải bắt đầu công việc đàm phán,
thương lượng một cách chính trực hơn. Khi đó và chỉ khi đó, Trung Quốc mới
giành được sự tin tưởng và tôn trọng của khu vực và thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét