Đỗ Thúy Hường
Hình minh họa : từ hoangquang
Ý thức hệ chẳng là cái cóc khô gì so với chủ quyền lãnh thổ.
Năm 1969 hai nước cộng sản đàn anh (LX – TQ) đã gạt bỏ ý thức hệ sang bên để nổ súng vào nhau khi có tranh chấp biên giới. Ý thức hệ (tính giai cấp, tình đồng chí) chẳng là cái cóc khô gì so với lợi ích dân tộc. Chỉ 10 năm sau (1979) hai nước CS Trung – Việt cũng chĩa súng vào nhau nhưng
ác liệt gấp trăm lần. Có tới 600.000 lính Tàu vâng lệnh đảng CSTQ tràn
sang Việt Nam. “Sơn thủy tương liên” quả là tiện để hành quân xâm lược.
Lính ta cũng tuân lệnh đảng CSVN đánh trả đẫm máu. Rốt cuộc, mỗi bên CS
đều tuyên bố giết được 60.000 sinh mạng của bên kia. Suốt 10 năm tiếp
theo, CSVN gọi CSTQ bằng những từ ngữ (kể cả trong Hiến pháp 1980 và Văn
kiện đại hội đảng V (1982) đầy mạt sát, căm hận… Cứ tưởng không còn cơ
hội nào hàn gắn nữa.
Liên Xô, Trung Quốc thực chất vẫn là hai đế quốc như thời phong kiến.
Chủ nghĩa CS chỉ bén rễ sâu ở các nước nông nghiệp
lạc hậu, vì nó hứa hẹn “tước của nhà giàu chia cho nhà nghèo”. Phù hợp
với nền nông nghiệp lạc hậu chỉ có thể là chế độ phong kiến. Tham vọng
cướp nước và thu phục chư hầu của chế độ phong kiến là cố hữu và vô tận.
Lãnh tụ CS ở Nga và Tàu, dù ban đầu ý thức hệ sâu sắc đến đâu… sớm muộn
gì cũng hành xử như Nga hoàng đại đế và Tần Thủy Hoàng thời xưa. Cụ
Stalin và cụ Mao không chỉ thành vua mà hoàng đế – tức là mở rộng bờ cõi
và thu phục chư hầu. Nước Nga xô viết đã chinh phục được quanh mình tới
14 nước “anh em” – thực chất là chư hầu. Chư hầu, cho nên khi đế chế đổ
(năm 1991), đám “anh em” đều bỏ chạy bán xới. Còn TQ mới kinh! Thời xa
xưa, các chư hầu các nước lớn quanh nó (Mãn, Mông, Hồi, Tạng, Việt) từng
có thời vùng lên, chống lại thiên triều, thậm chí có 2 chư hầu đã vào
“nuốt” (thôn tính) trung nguyên – lập ra nhà Nguyên, nhà Thanh. Hùng
mạnh dường ấy mà rốt cuộc 4 nước nói trên tới năm 1949 vẫn bị đảng CSTQ
“nuốt lại”; chỉ thoát được nước Việt ta. Đủ thấy, TQ đáng sợ dường nào.
Riêng VN càng phải thấy TQ đang cay cú và tiếc rẻ đất đai ta biết dường
nào. Xin chớ nghĩ rằng dân số TQ hiện gấp 15 lần dân ta, còn đất đai thì
rộng gấp 30 lần (như vậy, diện tích đất trên đầu người gấp đôi VN) mà
lòng tham đã hết.
Nếu thời nay vẫn rơi vào cái bẫy ý thức hệ?
Năm 1986 cụ Nguyễn Văn Linh được bầu tổng bí thư.
Tiếp tục đường lối cũ, cụ và bộ chính trị vẫn coi TQ là kẻ thù, vẫn dựa
hẳn vào Liên Xô để xây dưng CNXH ở VN mà không thấy Liên Xô đã rơi vào
khủng hoảng. Quả nhiên, chỉ 2 năm sau, các nước Đông Âu nhất loạt từ bỏ ý
thức hệ; Liên Xô lo thân không xong, cũng sớm vứt bỏ luôn vai trò lãnh
đạo phe XHCN… Cụ Linh và bộ chính trị của cụ tự thấy đất dưới chân sụt
xuống. Với ý thức hệ cộng sản, họ quay sang cầu cứu kẻ thù cũ, tôn đảng
CSTQ lên vị trí cầm đầu 5 nước XHCN sống sót (nhờ dân trí tiểu nông). Từ
đó, rơi vào cái bẫy ý thức hệ mà không thấy tấm gương tày liếp của Ấn
Độ. Cũng là nước khổng lồ, Ấn chỉ mong yên thân sống cạnh Trung. Do vậy,
Ấn và Trung đề ra 5 nguyên tắc chung sống hòa bình: (a) tôn trọng chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; b) không xâm lược nhau; c) không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; d) bình đẳng hai bên cùng có
lợi, e) chung sống hòa bình”. Mà rồi, đâu có được yên. Năm 1962, TQ vẫn
bất ngờ tấn công Ấn Độ.
Hai lần ban phát “mười sáu chữ vàng”.
Hoàn
toàn do TQ đưa ra, còn VN mừng rỡ tiếp nhận. Lần 1 là: “Láng giềng hữu
nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Đọc lên,
nó khác xa 5 nguyên tắc chung sống giữa 2 quốc gia, mà giống như phương
châm hành xử “trong nhà” của hai anh em. Chính cái sự quá ư thân thiết,
quá ư hứa hẹn là điều mà “thằng em” cần dè chừng “ông anh”. Cái loại
“ông anh” này đã từng nuốt trôi lãnh thổ khổng lồ của các dân tộc “anh
em” (Mãn, Mông, Hồi, Tạng) khác xa mình về văn hóa, phong tục, tôn giáo,
tiếng nói, chữ viết…; nhất là khác xa về ý thức hệ.
Cơ sở để đưa ra 16 chữ vàng là 4 câu (cũng gồm 16
chữ), cũng do TQ đưa ra, cũng được VN tin cẩn tiếp thu. Thì đấy! Rành
rành hai nước Việt Trung có: Sơn thủy tương liên, Văn hóa tương đồng.
Vậy thì, chúng ta phải Lý tưởng tương thông, Vận mệnh tương quan! Chứ
sao? Chẳng cần thông minh, miễn là không bị ý thức hệ đầu độc, ai cũng
nhận ra hai câu đầu là cái bẫy, hai câu sau là miếng mồi. Ham mồi là sập
bẫy. Chúng cũ rích, vì nếu lùi lại 600 năm (thời khời nghĩa Lam Sơn)
giặc Minh vẫn có thể dùng 4 câu này để chiêu hàng Lê Lợi, Nguyễn Trãi.
Thời đó, hai nước vẫn Sơn thủy tương liên, Văn hóa tương đồng. Hai bên
cũng giống nhau về ý thức hệ (phong kiến). Chỉ có điều, vận mệnh không
thể tương quan (thống trị và bị trị). Lý Thường Kiệt từ trên 1000 năm đã
nói dứt khoát: ai làm vua xứ ấy (dù núi sông liền nhau). Còn Nguyễn
Trãi cách 600 năm đã viết ngay ở những dòng đầu của Bình Ngô Đại Cáo,
lật tẩy chuyện “sông núi liền nhau” và “văn hóa giống nhau”. Xin trích:
“Như nước Đại Việt ta từ trước; Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Nước non
bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác…. Tuy “liền núi sông”, nhưng
bờ cõi đã chia”; tuy “đồng văn hóa” nhưng phong tục mỗi nước một khác…”
Thời nay, làm sao có thể “xui trẻ ăn cứt gà”?
Sợ nhất là “đồng chí tốt” (!)
Đảng CSTQ cứ đưa dần ra những cái lạt mềm buộc chặt.
Gần đây nhất là cái câu 4 tốt cũng nguy hiểm lắm lắm. Trong “Láng giềng
tốt, Bạn bè tốt, Đồng chí tốt, Đối tác tốt”, chỉ có “đồng chí tốt” được
cài vào là nguy hiểm nhất. Lý tưởng cao cả và tối hậu của CNCS là thế
giới đại đồng. Nhưng… đợi đến khi thực hiện CNCS mới xóa biên giới thì
lâu quá. Nếu chúng ta (TQ và VN) thật sự là những “đồng chí tốt” thì nên
xóa biên giới ngay từ bây giờ… Xóa xong biên giới, mỗi người nói tiếng
Việt sẽ được nghe 15 người xung quanh đáp lại bằng tiếng Trung. Nhưng họ
vẫn “tương đồng”: cả 16 người đều là “đồng chí tốt”.
Lê Chiêu Thống: Vị vua trung thành với ý thức hệ.
Đảng CS TQ từng lên án đảng CSLX là “CS giả hiệu”. Có
lẽ đảng LX bất cần, nhưng các đảng nhỏ rất sợ khi bị quy kết như vậy.
Có thời, mỗi đảng CS đều cố khẳng định mình đang theo chủ nghĩa Mác – Lê
“chân chính” (thực hiện đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản), để
được đảng CSTQ coi là “đồng chí tốt”.
Vua Lê Chiêu Thống được giáo dục cặn kẽ về đạo Khổng,
không kém thời nay các vị tổng bí thư trên thế giới nắm vững chủ nghĩa
Mác – Lê. Đây là vị vua tuyệt đối thần phục và trung thành với triều
đình Mãn Thanh, trước hết để tránh bị thiên triều gây khó dễ; kể cả sang
“hỏi tội”; sau nữa để thiên triều thừa nhận mình là “chính thống” –
loại trừ sự nhòm ngó ngôi vua của các thế lực trong nước. Với não trạng
ấy, khi gặp biến, vị vua này chạy sang Tàu cầu cứu là chuyện đương
nhiên, dễ hiểu. Té ra, cái bẫy ý thức hệ tuy cũ mà đến nay vẫn còn đắc
dụng. Sập bẫy, trở thành bán nước. Dễ như bỡn là vậy!
(Thưa các bạn trẻ. Tôi thấy môn Lịch Sử rất thú vị, nếu được các bậc lão thành am hiểu giáng giải thêm cho.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét