(Saigon ĐiểmTin) : Tiếp theo cái bẫy “ý thức hệ”, giới cầm quyền Trung Quốc còn
bày ra là hàng loạt những cái “bẫy con” khác nhằm kéo dài thời gian cho chiến
lược “trồng tre nẩy măng” của họ. Trong đó phải kể đến cái bẫy “đàm phán song
phương” về vấn đề tranh chấp trên biển Đông. Mục đích chủ yếu của cái bẫy này
là làm cho Việt Nam hoang mang, chần chừ hoặc không bao giờ kiện Trung Quốc ra
toàn án quốc tế. Có thể nói, với cái bẫy “đàm phán song phương”, một lần nữa giới
cầm quyền Trung Quốc đã kiểm soát, không để Việt Nam liên minh với bất kỳ quốc
gia nào để chống lại họ nhất là với các quốc gia trong khối ASEAN như
Philippines, Malaixia... vốn cũng đang tranh chấp với Trung Quốc. - SGĐT giới thiệu bài viết của tác giả đăng trên Viet-Studies
1. “Trồng tre nẩy
măng” là gì?
“Trồng tre nẩy măng” là lợi dụng sơ hở của hàng xóm, láng giềng
để từng bước chiếm đoạt đất đai của họ. Trước hết, kẻ tham lam trồng một bụi
tre ở phần đất mình đợi đến ngày nó nẩy măng qua phần đất hàng xóm. Khi những
cây măng đã thành tre thì lu loa lên rằng phần đất mà những cây tre đang sống
là đất của mình và ép hàng xóm phân chia lại ranh giới.
Có thể nói, từ xưa đến nay giới cầm quyền Trung Quốc chưa
bao giờ thôi sử dụng chiêu bài“trồng tre nẩy măng” trong quan hệ với Việt Nam.
Tính riêng trong thế kỷ XX, Trung Quốc đã nhiều lần sử dụng chiến lược “trồng
tre nẩy măng” để từng bước xấm chiếm bờ cõi của Việt Nam cả trên biển lẫn đất
liền. Cụ thể, để tranh chấp chủ quyền trên biển thì vào năm 1947 Trung Quốc đã
vẽ lại bản đồ và công bố “đường lưỡi bò” ôm trọn hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa của Việt Nam; năm 1974 lợi dụng cuộc chiến giữa hai miền Nam - Bắc, Trung Quốc
xua quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa lúc ấy do chính quyền miền Nam kiểm soát;
năm 1988 một lần nữa họ xua quân đánh chiếm đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa
của Việt Nam.
Còn trên đất liền, chiến lược “trồng tre nẩy măng” được
Trung Quốc sử dụng thông qua chiêu bài viện trợ, “giúp đỡ” miền Bắc Việt Nam
xây dựng một số con đường trong cuộc chiến tranh giữa miền để rồi khi đàm phán
cấm mốc phân chia ranh giới họ lại tráo trở bảo rằng đường ấy do họ làm (dù là
trên đất của ta) nên chủ quyền cũng thuộc về họ.
Từ những vấn đề trên có thể nói, việc cái giàn khoan HD 981
vừa cắm thẳng xuống thềm lục địa Việt Nam ngày 2/5 vừa qua chính là cái “măng
tre” theo thời gian đã nẩy lên từ những “bụi tre” mà các thế hệ cầm quyền Trung
Quốc “trồng” vào những năm 1947, 1974 và 1988 mà thôi.
2. Vì sao Trung Quốc
luôn sử dụng chiến lược “trồng tre nẩy măng” trong quan hệ với Việt Nam?
Để một bụi tre bên ranh giới nhà mình phát triển tươi tốt và
nẩy măng bên nhà hàng xóm điều quan trọng nhất là yếu tố thời gian. Thời gian
càng rộng bao nhiêu thì măng tre sẽ mọc lên càng nhiều. Để thực hiện ý đồ này,
tính riêng từ thế kỷ XX đến nay, giới cầm quyền Trung Quốc đã rất nham hiểm giở
mọi thủ đoạn cũng như tạo ra vô số những cái bẫy lớn, nhỏ để từng bước bẫy Việt
Nam vào tròng.
Trước hết phải kể đến cái bẫy mang tên“ý thức hệ”. Đây có thể
xem là cái bẫy quan trọng nhất mà Trung Quốc đã giăng ra để bẫy Việt Nam. Sự
nham hiểm và thâm độc của cái bẫy “ý thức hệ” là chiêu bài “4 tốt” và “16 chữ
vàng” mà giới lãnh đạo Trung Quốc (qua các thời kỳ) tùy vào tình hình cụ thể ở
Việt Nam mà vận dụng.
Có thể nói, đến nay vì cái bẫy “ý thức hệ” này mà Việt Nam gần
như lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc trên tất cả mọi phương diện: thể chế
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục... Điều này cũng đồng nghĩa với
việc Việt Nam đã tự cô lập mình; nhà cầm quyền Trung Quốc vì thế rất yên tâm
khi biết rằng Việt Nam hiện nay không “kết thân” với bất cứ quốc gia nào đặc biệt
là Mỹ và các nước phương Tây - những nước vốn không cùng “ý thức hệ” để xây dựng
và phát triển đất nước.
Tiếp theo cái bẫy “ý thức hệ”, giới cầm quyền Trung Quốc còn
bày ra là hàng loạt những cái “bẫy con” khác nhằm kéo dài thời gian cho chiến
lược “trồng tre nẩy măng” của họ. Trong đó phải kể đến cái bẫy “đàm phán song
phương” về vấn đề tranh chấp trên biển Đông. Mục đích chủ yếu của cái bẫy này
là làm cho Việt Nam hoang mang, chần chừ hoặc không bao giờ kiện Trung Quốc ra
toàn án quốc tế. Có thể nói, với cái bẫy “đàm phán song phương”, một lần nữa giới
cầm quyền Trung Quốc đã kiểm soát, không để Việt Nam liên minh với bất kỳ quốc
gia nào để chống lại họ nhất là với các quốc gia trong khối ASEAN như
Philippines, Malaixia... vốn cũng đang tranh chấp với Trung Quốc.
Đi liền với bẫy “đàm phán song phương” là cái “bẫy truyền
thông”. Đây là cái bẫy giúp nhà cầm quyền Trung Quốc hiểu rõ hơn những vấn đề nội
bộ của Việt Nam thông qua các cơ quan truyền thống chính thống. Đến nay, có thể
nói nhà cầm quyền Trung Quốc rất vui vẻ khi biết được phản ứng của chính quyền
Việt Nam trong việc xử lý và “định hướng” dân chúng đặc biệt là “khoanh vùng”,
cô lập tầng lớp nhân sĩ trí thức có cái nhìn tiến bộ dám cả gan can đặt vấn đề
“thoát Trung luận”.
Để thành công với hai cái “bẫy con” này, nhà cầm quyền Trung
Quốc đã rất tinh vi sử dụng chiến thuật“vừa đấm vừa xoa”,“mềm nắn, rắn buông” kết
hợp với quay sang đổ lỗi cho Hoa Kỳ đã lũng đoạn nhằm chia rẽ “tình hữu nghị của
hai nước chúng ta” trong khi ai cũng biết họ là kẻ đã dàn dựng mọi chuyện.
3. Làm sao để đối
phó?
Việc gì đến sẽ đến, cho dù có gian xảo đến mấy thì đến lúc
nào đó bộ mặt của kẻ chuyên đi ăn cướp cũng sẽ bại lộ. Việc nhà cầm quyền Trung
Quốc ngang nhiên đặt giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam một lần
nữa cho thấy “cái gen xâm lược” ngàn đời không đổi của họ là có thật.
Trong hoàn cảnh hiện nay, để tránh cho dân tộc một cuộc can
qua vì vậy, việc phải hết sức kiềm chế (trong mọi tình huống có thể) nhằm không
rơi vào bẫy khiêu khích của Trung Quốc nên được xem là giải pháp phải ưu tiên
hàng đầu.
Tuy vậy, đây chỉ là giải pháp tạm thời, trước mắt. Về lâu
dài, để có thể đối phó với chiến lược “trồng tre nẩy măng” của nhà cầm quyền
Trung Quốc nhất định Việt Nam phải thoát ra khỏi cái bẫy “ý thức hệ”. Đây là lựa
chọn sáng suốt nhất để chính quyền Việt Nam củng cố và xây dựng lại“niềm tin
chiến lược” không chỉ với đại bộ phận nhân dân trong nước mà còn với bè bạn quốc
tế - vốn đang rất bất bình về sự ngang ngược và hiếu chiến của Trung Quốc. Quan
trọng hơn, thoát ra khỏi bẫy “ý thức hệ” với Trung Quốc đó là cách tốt nhất để
Việt Nam phát huy, tận dụng mọi tiềm năng, tiềm lực của dân tộc nhằm xây dựng
và phát triển đất nước thật giàu mạnh trong tương lai. Một khi đã giàu mạnh rồi
thì dù có là một nước nhỏ đi nữa cũng không ai (nhất là Trung Quốc) dám ức hiếp
và xem thường Việt Nam.
Nói cách khác, để đối phó với Trung Quốc, Việt Nam phải rạch
ròi, dứt khoát với họ để đi theo con đường của riêng mình. Tuy vậy, vì lẽ, tạo
hóa đã định Việt Nam phải mãi là hàng xóm với Trung Quốc nên dù muốn dù không
chúng ta cũng phải xây dựng mối quan hệ hòa hảo với họ nhưng hòa hảo không có
nghĩa là nhu nhược hay lệ thuộc nhất là lệ thuộc về “ý thức hệ”. Đây là thời điểm
chín muồi nhất để Việt Nam kết thúc đồng thời cũng là mở ra một chương mới
trong lịch sử ngoại giao với Trung Quốc và bạn bè thế giới. Một đất nước, một
dân tộc chỉ biết ngồi “ăn mày dĩ vãng” rồi tự tâng bốc mình, ảo tưởng mình đang
ở “thiên đường” đó là con đường nhanh nhất làm cho dân tộc ấy suy vi, yếu đuối,
sớm muộn cũng bị kẻ khác ức hiếp, xâm lấn...
Một vấn đề nữa, trong bối cảnh hiện nay, muốn đối phó với sự
ngang ngược và hung hăng của nhà cầm quyền Trung Quốc nhất định Việt Nam cần tỏ
rõ lập trường trong việc có liên minh với những quốc gia khác hay không?
Đành rằng quan điểm nhất quán của Việt Nam là “không liên
minh với ai để chống lại nước thứ ba” nhưng nếu liên minh để tự vệ trước sự xâm
lược của Trung Quốc thì sao? Sắp tới đây, nếu Trung Quốc không rút giàn khoan
hay thậm chí thiết lập vùng nhận dạng phòng không trên toàn bộ thềm lục địa của
ta thì sao? Nếu nói không liên minh thì liệu có mâu thuẫn với việc chúng ta
đang kêu gọi và tranh thủ sự ủng hộ của dư luận và bạn bè quốc tế thời gian qua
không?
Nhân nói về vấn đề “dư luận quốc tế”, những ngày qua khi nhà
cầm quyền Trung Quốc ngang ngược đặt giàn khoan 981 trong thềm lục địa Việt Nam
thì nhìn chung “dư luận quốc tế” đang đứng về phía Việt Nam và lên án Trung Quốc.
Tuy vậy cũng nên tỉnh táo để hiểu rằng “dư luận quốc tế” là ai, chủ thể và tư
cách phát ngôn như thế nào? Thật ra, đa phần là của các chuyên gia, các nhà
nghiên cứu độc lập thuộc các cơ quan thông tấn báo chí, các tổ chức xã hội dân
sự hoặc phi chính phủ... chứ tuyệt nhiên chưa thấy quan điểm của một nguyên thủ
quốc gia nào chính thức công khai ủng hộ Việt Nam. Đặc biệt, trong hai quốc gia
có tiếng nói đối trọng mạnh mẽ nhất với Trung Quốc hiện nay là Nga và Hoa Kỳ
thì chỉ có Hoa Kỳ là phản ứng với quan điểm rất rõ ràng “không đứng về phía
nào”( Bộ ngoại giao Hoa Kỳ cũng thẳng thừng chỉ trích Trung Quốc khiêu khích và
hiếu chiến) còn Nga thì nhìn chung rất lơ là, chỉ kêu gọi hai bên kiềm chế một
cách rất chiếu lệ. Phải chăng đó cũng là lý do vì sao những ngày qua, tuy bị
“dư luận quốc tế” lên án nhưng nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn không nao núng. Thậm
chí, ngày qua ngày họ còn bộc lộ thái độ hung hăng hơn trước khi liên tiếp điều
thêm nhiều máy bay, tàu chiến ra để bảo vệ giàn khoan của họ như thể thách thức
Việt Nam và cả thế giới?
Từ đây, nghiêm túc mà nói, nếu Việt Nam đã quyết không liên
minh với ai thì cũng không nên tự ru ngủ mình về cái gọi là“chính nghĩa và công
lý đang thuộc về chúng ta nên không có gì phải sợ Trung Quốc”. Về lý thuyết,
theo luật pháp quốc tế, tuy công lý và “chính nghĩa” đang có vẻ nghiêng về phía
Việt Nam nhưng đáng tiếc là đến thời điểm này Việt Nam vẫn chưa kiện Trung quốc
ra tòa án quốc tế như cách mà Philippines đã làm. Và cho dù Việt Nam có khởi kiện
đi nữa thì với sự quỷ quyệt của giới lãnh đạo Trung Quốc thì chưa có gì đảm bảo
chắc chắn điều ấy sẽ thành hiện thực. Hơn nữa đâu phải nộp hồ sơ khởi kiện là
người ta sẽ phân xử ngay, phải mất thêm một khoảng thời gian khá lâu nữa để tòa
án quốc tế đọc hồ sơ, thụ lý vụ việc... Với khoảng thời gian ấy thì khi đó chưa
biết chuyện gì sẽ xảy ra.
4. Vĩ thanh
Những ngày qua, dù rằng có một bộ phận người dân có những
hành động quá khích trong khi biểu tình chống Trung Quốc. Đó là điều đáng tiếc,
đa phần người Việt yêu chuộng hòa bình đều không muốn như vậy. Tuy vậy, nói cho
cùng sự quá khích ấy cũng không nguy hiểm bằng sự hung hăng và ngang ngược của
quân xâm lược Trung Quốc ngoài biển Đông khi mỗi ngày đều xịt vòi rồng hay đâm
thẳng vào tàu hải cảnh của ta; uy hiếp bắt bớ, đánh đập, tịch thu tài sản của
ngư dân ta. Tuy việc làm của một bộ phận người dân là không phải, không đúng,
là vi phạm pháp luật cần phải răn đe nhưng biết đâu một ngày nào đó họ chính là
những cảm tử quân trong cuộc đối đầu với kẻ thù hung ác!? Vì vậy, trong cảnh “dầu
sôi lửa bỏng” hiện nay, thiết nghĩ cũng không nên quá mạnh tay với họ, bởi dù
sao đó cũng chỉ sự bộc phát nhất thời, dù sao cũng là máu mủ Việt Nam.
Ngoài ra, Tổ Quốc đang đối mặt với họa xâm lăng nhưng nếu
lòng yêu nước của Nhân Dân lại bị kiểm soát và áp đặt theo quan điểm và cách thức
yêu nước của một vài người nào đó thì cũng không có gì lố bịch và nguy hiểm
hơn.
Lãnh thổ biên cương đang bị xâm lấn ngày một nhiều hơn nhưng
“tinh thần yêu nước” và “sức mạnh của dân tộc” lại phụ thuộc vào quan điểm của
một nhóm người nào đó thì quả không có gì bất hạnh hơn cho dân tộc này.
Nhân những chuyện này, thiết nghĩ cũng cần nhắc lại lời của
chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của
Đảng Lao động Việt Nam - tháng 2 năm 1951, rằng:
“Dân ta có một lòng nồng
nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả
lũ bán nước và lũ cướp nước...”
Đoạn văn trên là bằng
chứng cho thấy không ai có quyền nhân danh bất cứ điều gì (cho dù đó là Đảng,
là “ý thức hệ”...) để “dẫn dắt”, “định hướng” hay áp đặt lòng yêu nước của nhân
dân kiểu như“mọi chuyện đã có Đảng và Nhà nước lo”. Trong bất cứ hoàn cảnh nào
cũng không ai được phép đặt Đảng ngang hàng với Tổ Quốc, không thể và không bao
giờ có chuyện“yêu Đảng là yêu nước” hay ngược lại. Những luận điệu như thế này
nếu không phải là sự xúc phạm “hồn thiêng sông núi” cha ông 4000 năm thì cũng
là một sự ngụy biện trắng trợn về lòng yêu nước của“bè lũ bán nước”. Không có
gì Thiêng Liêng hơn Tổ Quốc, không có gì cao hơn Đất Nước. Không có gì sánh bằng
lòng yêu nước và tình yêu Tổ Quốc của Nhân Dân. Đó mãi mãi là chân lý.
Cần Thơ, 17/5/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét