Kính thưa các anh các chị,
Việc khai thác bauxite trên Tây Nguyên ngày
càng gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng giữa lúc Tây Nguyên nói riêng và kinh tế
cả nước nói chung đang có nhiều khó khăn lớn. Hơn nữa đây là thời điểm Thông
báo số 245 của Bộ Chính trị về bauxite Tây Nguyên đã 5 năm. Chúng tôi là Nguyên
Ngọc, Lê Văn Cương, Chu Hảo, Nguyễn Thành Sơn và tôi - Nguyễn Trung - nhất trí
cùng nhau soạn bức thư ngỏ (gởi kèm theo mail này) kêu goi đình chỉ khai thác
bauxite Tây Nguyên và đóng cửa nhà máy Tân Rai, dừng xây dựng tiếp nhà máy Nhân
Cơ. Vì tầm quan trọng của vấn đề, chúng tôi kính mời các anh các chị cùng ký
tên vào thư ngỏ này. Nếu các anh các chị tán thành, xin các anh các chị cùng đứng
tên (không cần gửi chữ ký tươi) và xác nhận bằng cách gửi rõ tên, chức danh và
địa chỉ của các anh các chị vào địa chỉ mail
Thư
ngỏ
Về khai thác bô-xít ở Tây Nguyên
Hà Nội ngày 24-04-2014
Kính gửi:
-
Ông
Nguyễn Phú Trọng - Tổng bí thư, Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam ,
-
Ông
Trương Tấn Sang - Chủ tịch, nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ,
-
Ông
Nguyễn Tấn Dũng - Thủ tướng, Chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ,
-
Ông
Nguyễn Sinh Hùng - Chủ tịch, Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ,
-
Ông
Nguyễn Thiện Nhân - Chủ tịch, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam .
Đồng kính gửi:
-
Toàn
thể quốc dân đồng bào,
Chúng
tôi, những người Việt Nam quan tâm đến vận mệnh đất nước ký tên trong thư ngỏ
này, khẩn thiết yêu cầu các quý vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mặt trận (dưới
đây gọi tắt là các quý vị lãnh đạo) quan tâm và có quyết định giải quyết dứt
điểm vấn đề khai thác bô-xít Tây Nguyên trên cơ sở 5 năm thực hiện kết luận của
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam (sau đây viết tắt
là BCHTƯ ĐCSVN) được nêu trong Thông báo số 245-TB/TƯ ngày 24-04-2009 về “Quy
hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn
2007-2015, có xét đến năm 2025” (dưới đây viết tắt là thông báo số 245).
Thưa các quý vị
lãnh đạo, trước tiên, chúng tôi hiểu “Chủ trương thăm dò, khai thác, chế
biến bô-xít là chủ trương nhất quán từ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng
đến nay. Triển khai các nghị quyết đại hội, trong 2 nhiệm kỳ, Bộ Chính trị đã
nhiều lần bàn và ra các nghị quyết, kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng
ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm, phục vụ phát triển kinh tế đất nước nói
chung, góp phần phát triển kinh tế-xã hội Tây Nguyên nói riêng…” như đã
được nêu trong Thông báo số 245.
Chúng tôi đặc biệt quan
tâm đến quan điểm của Bộ Chính trị về khai thác bô-xít Tây Nguyên được nêu
trong Thông báo số 245 là:
“- Quy hoạch và kế hoạch
triển khai các dự án phải trên cơ sở hiệu quả tổng thể, gồm cả hiệu quả kinh tế
và hiệu quả xã hội; trong đó, chú ý đúng mức đến việc tiết kiệm tài nguyên, nhu
cầu thị trường, sản phẩm phải có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế
giới…
- Khai thác bô-xít, sản
xuất alumin có tác động lớn đến môi trường từ khâu khai thác, chế biến, vận
chuyển đến xử lý chất thải, nếu không được quản lý tốt không tính hết đến tác
động môi trường thì sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng mà việc khắc phục phải mất
nhiều năm với chi phí tốn kém lớn.
- Kết cấu hạ tầng Tây
Nguyên còn thấp kém, nguồn nước và nguồn điện hạn chế, nên cần phải đẩy mạnh
phát triển để vừa đáp ứng yêu cầu khai thác bô-xít, sản xuất alumin, vừa bảo
đảm yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội vùng này.
- Việc lựa chọn công nghệ
là một nội dung quan trọng; yêu cầu là phải sử dụng thiết bị và công nghệ hiện
đại trên thế giới.
- Quan tâm đúng mức đến
đời sống và giữ gìn bản sắc văn hoá các dân tộc Tây Nguyên; tạo công ăn việc
làm cho nhân dân địa phương; việc sử dụng lao động nước ngoài phải đúng quy
định của pháp luật.
- Tây Nguyên là khu vực
nhạy cảm, cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề an ninh, quốc phòng cho cả trước mắt
và lâu dài, đến môi trường tự nhiên và môi trường văn hoá…”
Đối chiếu giữa một bên là tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị như
trong thông báo nêu trên, và một bên là những gì đã diễn ra trong quá trình xây
dựng nhà máy, khai thác, chế biến bô-xít để sản xuất alumina suốt 5 năm qua tại
Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắc Nông) do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng
sản (dưới đây gọi tắt là tập đoàn TKV) thực hiện, chúng tôi thấy nổi lên những
vấn đề rất đáng lo ngại sau đây:
-
Một là: Toàn bộ việc xây dựng nhà máy và triển
khai mỏ ở Tân Rai và Nhân Cơ đã diễn ra theo một quy trình ngược, dựa trên các
nghiên cứu và quy hoạch có rất nhiều sai sót.
Thực
tế cho thấy việc triển khai 2 nhà máy Tân Rai và Nhân Cơ chỉ dựa trên những
nghiên cứu, khảo sát kém chất lượng và không đủ độ tin cậy. Các tính toán,
thông số kinh tế - kỹ thuật trong qui hoạch của các dự án và trong thực tế thực
thi công trình đều có chênh lệch lớn. Các khâu liên quan đến kết cấu hạ tầng
đều không được chuẩn bị trước với sự tính toán chu đáo. Hệ quả là: Việc xây
dựng nhà máy alumina và khai thác các mỏ bô-xít được tiến hành trước khi có các
phương án khả thi về giao thông vận tải, còn nhiều khó khăn trong cân đối các
nguồn cung ứng cho quá trình sản xuất đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, dẫn
tới những ách tắc,
việc sau chờ việc trước… Cụ thể là: Nhà máy Tân Rai đã xây dựng xong được 2 năm
nhưng vì những yếu kém nêu trên nên không thể thực sự đi vào sản xuất có hiệu
quả.Đến nay hầu như không thực hiện được các chỉ tiêu kinh tế - tài chính đã được TKV cam kết. Nhà máy Nhân Cơ đang xây dựng, tiến độ
thực hiện chậm 3 năm so với kế hoạch…
Nhà
máy Tân Rai đã đi vào sản xuất từ 2 năm nay, song cho đến nay vẫn chưa có
phương án khả thi nào cho vấn đề giao thông vận tải (vận chuyển nguyên liệu,
nhiên liệu cho sản xuất alumina ở nhà máy và chở sản phẩm xuống cảng để xuất
khẩu). Dự án cảng Kê Gà đã phải hủy bỏ và phương án vận tải cho dự án alumina
Nhân Cơ càng bế tắc. Việc sử dụng hệ thống đường sá và cảng hiện có cho yêu cầu
vận tải của 2 nhà máy đòi hỏi phải mất thêm nhiều thời gian, và ngân sách nhà
nước phải có khoản đầu tư mới để nâng cấp hệ thống này (sẽ đắt không kém xây
dựng mới) mà vẫn không tránh khỏi ách tắc giao thông trong vùng. Giả thiết có
sẵn một hệ thống vận tải như thế, giá thành alumina của 2 nhà máy này cũng sẽ
không thể chịu đựng nổi chi phí vận tải đường bộ 2 chiều cho khoảng cách trên
200 km để có thể cạnh tranh được trên thị trường. Nếu thêm nhà máy Nhân Cơ đi
vào vận hành, ách tắc trong vấn đề giao thông vận tải sẽ trở nên bất khả kháng
hơn.
Do
công nghệ lạc hậu, mức sử dụng nước theo cam kết của nhà thầu cho tuyển quặng và
sản xuất alumina nhiều gấp 1,4 lần so với mức cao nhất của thế giới. Cho đến
nay, chủ đầu tư vẫn chưa có nguồn cân đối bổ sung cho nhu cầu sử dụng nước để
sản xuất alumina tại 2 nhà máy. Tây Nguyên vốn khan hiếm nước, đặc biệt vào mùa
khô kéo dài gần 8 tháng / năm, nếu duy ý chí cấp đủ nước cho 2 nhà máy này sẽ
dẫn đến hao hụt lớn nguồn nước cung cấp cho cây công nghiệp và dân sinh trong
vùng và các khu vực hạ lưu. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến
cho việc khai thác bô-xít và sản xuất alumina trên Tây Nguyên rất không khả
thi.
Việc
đảm bảo nguồn nhiệt năng cho sản xuất alumina tại 2 nhà máy cũng đang đòi hỏi
những khoản đầu tư tốn kém và làm tăng chi phí vận hành. Thực tế cho thấy việc
điện phân nhôm trên Tây Nguyên sẽ không có hiệu quả, vì 2 lẽ: (1) giá điện ở
Việt Nam và ở Tây Nguyên không rẻ (dù là thủy điện hay nhiệt điện); (2) nền
kinh tế hiện rất mất cân đối về năng lượng, điện phải được ưu tiên sử dụng cho
các dự án kinh tế mang lại nhiều giá trị gia tăng và lợi nhuận hơn, thân thiện
môi trường hơn.
Việc
áp dụng công nghệ của cả 2 dự án alumina không phù hợp và lạc hậu đã dẫn đến
những hệ quả như: Tỷ lệ tổn thất tài nguyên (quặng bô-xít) lên tới trên 50%,
công nghệ khí hóa than ở Tân Rai và Nhân Cơ đã lạc hậu hơn nửa thế kỷ và chứa
đựng nhiều rủi ro kỹ thuật. Chất lượng sản phẩm alumina khó được kiểm soát (về
độ ẩm, tỷ lệ dưới cỡ). Khâu nghiệm thu/bàn giao công trình đang bị kéo dài và
còn để lại nhiều câu hỏi về chất lượng nhà máy, công suất, khả năng vận hành
liên tục, mức độ tiêu hao nguyên vật liệu và năng lượng cho đầu vào. Các giải
pháp thiết kế, bố trí mặt bằng sân công nghiệp của cả hai nhà máy có nhiều bất
cập, gây lãng phí trong sản xuất…
Đặc
biệt, cả 2 nhà máy đều áp dụng công nghệ thải bùn đỏ “ướt” (nghĩa là vẫn phải
thải cả dung dịch xút ăn da- NaOH ra hồ chứa sau một thời gian mới thu hồi về
lại nhà máy). Với công nghệ thải ướt - chờ khô như vậy, trong suốt quá
trình vận hành của cả 2 dự án thường xuyên vẫn có các hồ bùn đỏ ướt độc hại ở
Tây Nguyên với độ cao 700 – 800m, đe dọa nghiêm trọng các vùng xung quanh và hạ
lưu. Thiên tai và biến đổi khí hậu sẽ làm cho hiểm họa bùn đỏ càng trở nên khó
lường, nhất là thời tiết Tây Nguyên khắc nghiệt và có nhiều hiện tượng cực đoan
trong thời gian gần đây. Việc sử dụng bùn đỏ để sản xuất sắt xốp có thể khả thi
trong phòng thí nghiệm, nhưng hoàn toàn không khả thi về mặt kinh tế. Trên thế
giới chưa có nơi nào triển khai được ở qui mô công nghiệp cho sắt xốp như vậy.
Việc sản xuất các vật liệu xây dựng khác từ bùn đỏ cũng gặp những khó khăn
tương tự.
Hai
năm khai thác bô-xít vừa qua cho thấy việc hoàn thổ không diễn ra hoặc không
thể diễn ra như trong báo cáo của luận chứng kinh tế kỹ thuật. Việc khai thác
và hoàn thổ theo qui trình “cuốn chiếu” như dự tính của TKV trước đây không thể
thực hiện được bởi vì địa hình thực tế của Tây Nguyên chủ yếu là các đồi: ở
đỉnh đồi quặng bô-xít đã bị phong hóa, dưới chân đồi quặng bô-xít đã bị rửa
trôi, chỉ còn lại đất sét. Quặng bô-xít chỉ tập trung ở các sườn đồi nên việc
khai thác đòi hỏi phải chiếm nhiều diện tích. Công nghệ khai thác đang được áp
dụng chủ yếu là bóc các lớp quặng ở sườn đồi (giống như làm đường giao thông
trong vùng đồi núi), đất bị gạt xuống chân đồi vốn là nơi có khả năng canh tác
nông nghiệp ở Tây Nguyên. Vì vậy, việc hoàn thổ không thể thực hiện được, toàn
bộ cân bằng của tự nhiên được tạo ra trong suốt quá trình kiến tạo địa lý hàng
chục triệu năm đang bị phá vỡ. Thực tế cho thấy, không thể dự báo được các hệ
lụy của việc xâm hại đến môi trường tự nhiên như thế và cái giá phải trả sẽ rất
đắt. Kể từ khi bô-xít được khai thác đến nay, trên thực tế TKV chưa thể thực
hiện hoàn thổ, phục hồi môi trường đất. Trong khu vực trồng cây thử nghiệm trên
đất đã khai thác bô-xít ở Tân Rai không có loại cây công nghiệp nào có thể phát
triển được.
Về mặt tài chính: Vốn Đầu
tư ban đầu dự tính khoảng 350 triệu USD cho mỗi nhà máy, sau đã phải điều chỉnh
lên đến 466 triệu USD cho nhà máy Tân Rai, và 499,2 triệu USD cho nhà máy Nhân
Cơ với cùng một công suất là 650.000 tấn alumina/năm. Cả 2 dự án thử nghiệm đều
được giao cho một nhà thầu thực hiện. Theo kinh nghiệm, với cùng một công nghệ
và cùng một nhà thầu lẽ ra nhà máy sau phải rẻ hơn nhà máy trước ít nhất 15%,
nhưng thực tế đã ngược lại, nhà máy Nhân Cơ (sau) đắt hơn nhà máy Tân Rai
(trước) trên 33 triệu USD. Tổng mức đầu tư theo dự toán cập nhật cho chương
trình bô-xít ở 2 nhà máy này khoảng 1,6 tỷ USD. Sản phẩm của cả 2 dự án chủ yếu
(hơn 95%) để xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu và cả 2 dự án sẽ không có đóng góp
đáng kể vào nguồn thu của ngân sách cũng như tạo công ăn việc làm cho người dân
địa phương. TKV cho biết nhà máy Tân Rai năm 2013 lỗ 258 tỷ VNĐ, năm 2014 sẽ lỗ
176 tỷ VNĐ, từ 2016 mới thôi không lỗ (?). Nhà máy Nhân Cơ nếu đi vào sản xuất
dự kiến sẽ lỗ liên tiếp trong khoảng 5 – 6 năm đầu… Tại các hội thảo phản biện
do Liên hiệp các hiệp hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức, dự báo
nhu cầu alumina trên thế giới tương đối ổn định và giá sẽ có xu hướng tăng,
nhưng do công nghệ lạc hậu và chi phí vận tải quá cao sẽ khiến 2 nhà máy Tân
Rai và Nhân Cơ nếu chạy hết công suất, mỗi năm sẽ lỗ từ 50 – 100 triệu USD. Xin
lưu ý: Các con số tính lỗ này, dù là của TKV hay là của VUSTA cũng mới chỉ dựa
trên tính toán đơn thuần bên trong nhà máy, chưa bao gồm chi phí từ ngân sách
nhà nước phải bỏ ra để nâng cấp / xây dựng mới và duy tu, bảo dưỡng hàng năm
cho khoảng 200 km đường giao thông và cảng, ước tính sẽ là nhiều trăm triệu USD
nữa mà nền kinh tế của đất nước phải gánh chịu.
-
Hai là: Toàn bộ việc khai thác bô-xít Tây Nguyên
vừa qua cho thấy TKV không tuân thủ các quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị nêu
trong thông báo số 245. Trong điều kiện hiện nay của đất nước việc khai thác
bô-xít Tây Nguyên chỉ đem lại những thua lỗ nặng nề cho nền kinh tế, gây ra
nhiều hệ lụy về môi trường, xã hội cho Tây Nguyên nói riêng và cho cả nước nói
chung.
Trước hết, nói
về TKV:
Có sự thật khách quan là
thông báo số 245 được ban hành giữa lúc đã triển khai xong việc quy hoạch khai
thác bô-xít cho nhà máy Tân Rai và Nhân Cơ. Trong đó, nhà máy Tân Rai đã thực
thi xong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Tuy nhiên, lẽ ra phải bám sát quan điểm chỉ
đạo của thông báo số 245 để điều chỉnh kịp thời các việc tiếp theo, nhưng TKV
chỉ một mực đẩy mạnh thực hiện kế hoạch đã có. Trong thời gian kể từ khi có
thông báo số 245 (24-04-2009) đến khi xây dựng xong nhà máy Tân Rai (2011),
trong cả nước tiếp tục có các hội thảo phản biện về đề tài bô-xít Tây Nguyên.
Song hầu như các ý kiến phản biện đều không được tiếp thu.
Từ khi nhà máy Tân Rai đi
vào sản xuất cho đến nay đã 2 năm, TKV cũng chưa một lần đánh giá lại toàn bộ
tình hình công việc theo tinh thần chỉ đạo của thông báo số 245, thậm chí còn
đẩy mạnh việc xây dựng tiếp nhà máy Nhân Cơ giữa lúc TKV thiếu vốn và gặp phải
rất nhiều khó khăn trong dự án nhà máy Tân Rai. Cũng trong 2 năm qua đã có
nhiều đoàn của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành đến Tân Rai và Nhân Cơ kiểm
tra, giám sát. Nhưng vì thiếu những thông tin khách quan và đầy đủ của chủ đầu
tư, nên việc giám sát / kiểm tra không đạt kết quả xác thực.
Hệ quả là: Việc xây dựng
2 nhà máy và khai thác bô-xít tại Tân Rai và Nhân Cơ hoàn toàn không tuân thủ
tinh thần chỉ đạo của thông báo số 245 là chỉ làm thí điểm, phải đảm bảo khắt
khe các yêu cầu mọi mặt về phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên, phải gìn
giữ môi trường tự nhiên. Việc khai thác bô-xít để chế biến alumina như đang
diễn ra ở Tây Nguyên đứng trước thực tế: Cả 2 nhà máy sẽ không thể vận hành
đúng công suất nếu vấn đề giao thông vận tải và việc cung ứng nước và than đá
không được đảm bảo. Giả định những khó khăn này được khắc phục, việc sản xuất
alumina vẫn không tránh khỏi thua lỗ (vì công nghệ lạc hậu và chi phí vận tải
quá lớn); những hiểm họa do bùn đỏ, do thiên tai, hoặc do cả bùn đỏ và thiên
tai vẫn thường trực và không thể lường trước được.
Việc khai thác
bô-xít để sản xuất alumina hiện nay ở Tân Rai và Nhân Cơ đang đặt ra cho cả
nước nhiều vấn đề:
Trước hết, hai nhà máy
Tân Rai và Nhân Cơ và việc khai thác bô-xít như đang làm đã đặt đất nước đứng
trước tình trạng bỏ thì thương, vương thì tội. Duy trì để sản xuất thì
lỗ nặng và tích tụ nhiều hiểm họa không thể kiểm soát được về các mặt kinh tế,
môi trường, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng… cho cả nước. Dẹp bỏ thì tổn
thất lớn và chồng chất thêm nợ công mới cho cả nền kinh tế.
Việc khai thác bô-xít
trên Tây Nguyên như đang diễn ra là sai lầm nghiêm trọng về chiến lược phát
triển kinh tế (phát triển theo chiều rộng: dựa trên đầu tư để bóc lột tài
nguyên và tận dụng lao động rẻ, hủy hoại môi trường). Trong khi nền kinh tế
đất nước đang đòi hỏi phải chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu trong quá
trình đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng (chiến lược phát triển
chủ yếu phải dựa trên phát huy chất lượng nguồn nhân lực, tận dụng các lợi thế
địa kinh tế, tận dụng sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật).
Tình hình còn trở nên đặc biệt nghiêm trọng ở chỗ nền kinh tế nước ta từ nhiều
năm nay lâm vào khủng hoảng cơ cấu sâu sắc, giữa lúc này việc huy động một
nguồn lực lớn cho bô-xít Tân Rai và Nhân Cơ chẳng những không hợp lý mà còn gây
ra những ách tắc mới và gánh nặng mới cho nền kinh tế cả nước. Điều này đi
ngược với định hướng phát triển kinh tế bền vững đã ghi trong nghị quyết đại
hội XI của ĐCSVN. Hơn nữa, việc khai thác bô-xít để sản xuất alumina như đang
tiến hành sẽ dẫn tới trong thực tế cuối cùng sẽ chỉ có một người sử dụng duy
nhất là Trung Quốc; sản phẩm alumina Việt Nam sẽ phải đối mặt với một sự lệ
thuộc rất nguy hiểm và không có lối ra; sản xuất càng nhiều, sự lệ thuộc càng
lớn. Trong khi đó bài toán dùng alumina để sản xuất nhôm trong nước không có
lời giải trên các phương diện kinh tế, kỹ thuật, các lợi thế so sánh.
Có thể dễ dàng so sánh,
nếu sử dụng nguồn tiền ước tính khoảng 1,6 tỷ USD đầu tư vào bô-xít Tây Nguyên
để phát triển các đề án kinh tế theo hướng phát triển Tây Nguyên xanh, bền
vững (các công trình thủy lợi và kết cấu hạ tầng, các dự án kinh tế nông
nghiệp công nghệ cao và công nghệ sinh thái, các dự án kinh tế dịch vụ…) sẽ tạo
ra nhiều công ăn việc làm mới, sẽ có thể đem lại những kết quả gì và tránh được
những hệ lụy gì cho Tây Nguyên nói riêng và cho cả nước nói chung.
Vấn đề bô-xít – alumina
hiện nay ở Tân Rai và Nhân Cơ còn phải được xem xét trong bối cảnh sự phát
triển của Tây Nguyên trong những thập kỷ vừa qua chủ yếu dựa trên sự khai thác
các yếu tố tự nhiên; sự khai thác này đã tới ngưỡng không được phép vượt qua.
Thực trạng hiện nay ở Tây Nguyên: đất đai, rừng, nguồn nước đã bị khai thác cạn
kiệt, tới hạn và không thể chịu đựng thêm những dự án khai thác mới; môi trường
tự nhiên trên thực tế không thể phục hồi lại được. Trong khi đó, ở Tây Nguyên
kết cấu hạ tầng vẫn rất lạc hậu; dân trí và chất lượng nguồn nhân lực nói chung
thấp; chênh lệch giàu nghèo ngày càng rộng trong quá trình phát triển và tạo ra
những bất công mới; người chịu thua thiệt nhất trong quá trình phát triển này
là cộng đồng các dân tộc tại chỗ. Cho đến nay Tây Nguyên vẫn là một trong những
vùng nghèo và có chênh lệch giàu nghèo lớn nhất của cả nước.
Trong bối cảnh này cần
đặc biệt nhấn mạnh: (1) Tây Nguyên là quê hương tự nhiên của cộng
đồng các dân tộc tại chỗ, (2) Tây Nguyên là mái nhà của Đông Dương cả về mặt tự
nhiên và về mặt địa chính trị, và (3) Tây Nguyên trong tương lai rất gần còn là
không gian sinh tồn mới của cả nước khi biến đổi khí hậu (nước biển dâng) sẽ
làm thu hẹp diện tích đất đai sinh sống của cả nước. Bất kể sự phát triển nào ở
Tây Nguyên xâm phạm 3 đặc điểm này, đất nước sẽ phải trả giá. Ngay từ bây giờ,
sự phát triển của Tây Nguyên nói riêng và của cả nước nói chung nếu không tính
đến 3 đặc điểm này của Tây Nguyên, sự bình yên và an ninh của đất nước bị uy
hiếp.
***
Kính thưa các quý vị lãnh
đạo,
Toàn bộ những vấn đề
trình bày trong thư ngỏ này đã được dự báo trước, đã được làm rõ nhiều lần
trong rất nhiều hội thảo khắp cả nước, trong các thư và các kiến nghị của các
tầng lớp nhân dân khác nhau. Điều đáng tiếc là những ý kiến phản biện như thế
đều không được tiếp thu và đáng tiếc hơn nữa là thực tế đã diễn ra ở Tân Rai và
Nhân Cơ đang xác nhận tính đúng đắn của các dự báo, các tính toán đã được nêu
trong những ý kiến đóng góp, phản biện. Sự việc dẫn tới kết quả hai nhà máy Tân
Rai (đã hoàn thành) và Nhân Cơ (đang trong giai đoạn xây dựng) trở thành việc
đã rồi, hai nhà máy này đang gây ra những hậu quả không thể cứu chữa đối với đất
nước.
Chúng tôi, những người
soạn thảo và ký vào Thư ngỏ này một lần nữa cùng nhau đánh giá lại toàn bộ vấn
đề khai thác bô-xít như đang tiến hành ở Tây Nguyên, nhất trí bằng thư
ngỏ này kiến nghị với các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ra quyết định đình chỉ
ngay việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên. Đóng cửa nhà máy Tân Rai và dừng việc
xây dựng tiếp nhà máy Nhân Cơ. Việc khai thác bô-xít Tây Nguyên trong tương lai
sẽ chỉ được đặt ra khi đất nước có những điều kiện kinh tế và khoa học kỹ thuật
mới.
Chúng tôi hiểu đây là một
quyết định rất khó khăn, nhưng là một quyết định có trách nhiệm vì cái giá phải
trả sẽ vẫn còn rẻ hơn rất nhiều cho Tây Nguyên, cho toàn bộ nền kinh tế quốc
dân và cho cả nước nói chung so với những tổn thất đã xảy ra, đang xảy ra và sẽ
còn tiếp tục xảy ra nếu duy trì hoạt động của 2 nhà máy này. Chúng tôi đề nghị
quý vị lãnh đạo kêu gọi nhân dân cả nước phát huy sáng kiến của nhân dân để
giảm bớt những tổn thất phải chấp nhận của quyết định này, kể cả việc bán đấu
giá các thiết bị của 2 nhà máy này (không bán mặt bằng, càng không nên cổ phần
hóa để không “rơi” vào tay những đối tác ngoài mong đợi).
Thưa các quý vị lãnh đạo,
Chúng tôi tin rằng quyết
định đầy tinh thần trách nhiệm này của các quý vị lãnh đạo sẽ được nhân dân cả
nước đồng tình, hậu thuẫn. Nhân dân cả nước sẽ kề vai sát cánh với các vị lãnh
đạo và đồng bào Tây Nguyên khắc phục những khó khăn trong việc thực hiện quyết
định này để chung tay xây dựng Tây Nguyên phát triển bền vững. Chúng tôi kính
mong các vị lãnh đạo cho nhân dân cả nước được biết ý kiến của các quý vị về đề
nghị nêu trong thư ngỏ này của chúng tôi.
Kính thưa toàn thể quốc
dân đồng bào,
Vì tầm quan trọng sống
còn đối với đất nước và vì nhiệm vụ phát triển bền vững Tây Nguyên, chúng tôi
hy vọng toàn thể quốc dân đồng bào sống ở trong nước cũng như ở nước ngoài đồng
tình ủng hộ kiến nghị của chúng tôi bằng cách ký tên vào thư ngỏ này. Sự đồng
tình hưởng ứng như vậy của quốc dân đồng bào sẽ tăng thêm ý nghĩa quan trọng
của thư ngỏ này và củng cố tình đoàn kết của nhân dân cả nước trong giải quyết
những việc khó của đất nước.
Kính thư
NHỮNG NGƯỜI THAM GIA KÝ TÊN
Stt
|
Họ và tên
|
Chức danh
|
Địa chỉ
|
Ghi chú
|
1
|
Nguyễn Thị Bình
|
Nguyên Phó Chủ tịch nước CHXHCN Việt
|
||
2
|
Nguyên Ngọc
|
Nhà văn
|
||
3
|
Nguyễn Trung
|
Nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
|
||
4
|
Lê Văn Cương
|
PGS.TS – Nguyên Viện trưởng Viện chiến lược Bộ Công an
|
||
5
|
GS.TS – Nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ &
Môi trường
|
|||
6
|
Nguyễn Thành Sơn
|
TS – Giám đốc BQL các dự án than ĐBSH - Vinacomin
|
||
Vài anh/chị hỏi cách ký tên, xin xem :
Trả lờiXóaNếu các anh các chị tán thành, xin các anh các chị cùng đứng tên (không cần gửi chữ ký tươi) và xác nhận bằng cách gửi rõ tên, chức danh và địa chỉ của các anh các chị vào địa chỉ mail :
kiennghibauxite2014@gmail.com