Trần Nghi Hoàng - Nhịp Cầu Thế Giới Online
20.06.2014
(NCTG) “Công hay tội của những chính quyền đã và đang giữ vị trí lãnh đạo đất nước Việt Nam qua từng thời kỳ sẽ được nghiêm khắc phán xét trong lịch sử. Nhưng khi nguy cơ mất biển và mất nước đang nhãn tiền trước mắt thì phải đặt ra câu hỏi, liệu đến một ngày Việt Nam có còn lịch sử để ghi chép hay không?” – nhà văn Trần Nghi Hoàng từ Hoa Kỳ.
“Công hàm Phạm Văn Đồng”
“Thủ tướng phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Thưa Đồng chí Tổng lý
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà Nội ngày 14 tháng 9 năm 1958.
Phạm Văn Đồng
Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Kính gửi đồng chí Chu Ân Lai, Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh”.
Trên đây là toàn bộ nội dung cái gọi là “công hàm Phạm Văn Đồng” mà từ lâu tôi đã phong thanh, rằng với công hàm đó, Phạm Văn Đồng, Thủ tướng nhà nước cộng sản miền Bắc Việt Nam đã “dâng” hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cho Trung Cộng.
Tôi tự hỏi, vào năm 1958 thì Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam Cộng hòa, một quốc gia được công pháp quốc tế công nhận. Phạm Văn Đồng - thủ tướng nhà nước cộng sản Bắc Việt vào thời ấy hiển nhiên không có tư cách ký kết “dâng tặng” hay làm bất cứ điều gì trên hai quần đảo ấy, với bất kỳ đối tác hay quốc gia nào khác!
Cách đây chừng bốn, năm năm, truy tìm được cái gọi là “công hàm Phạm Văn Đồng”, tôi có đọc nhưng không quan tâm lắm vì thấy nó mang tính chất như một lời nhắn riêng tư chứ không có gì xác đáng để cho rằng đó là một “công hàm” của quốc gia này gởi cho quốc gia khác.
Trong bức thư, Phạm Văn Đồng bày tỏ rằng rất tán thành một quyết định gì đó của Trung Cộng ký vào ngày 4 tháng 9 năm 1958. Phạm Văn Đồng không cho biết rằng cái quyết định ký ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính quyền cộng sản Trung Quốc chứa đựng những gì. Rõ ràng bức thư đó rất mơ hồ và hàm hồ.
Việc Trung Hoa lấn chiếm đất và biển của Việt Nam đã xảy ra từ ngàn đời. Dù dưới thời Trung Hoa quân chủ phong kiến hay Trung Cộng vô sản thực dân. Cái gọi là “công hàm Phạm Văn Đồng” từ mấy chục năm qua vẫn là một bí ẩn đối với đa số dân Việt Nam. Còn cái tuyên bố ký ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Cộng lại càng là một thứ vô hình vô tướng, không mấy ai biết nó chứa đựng những mưu tính xảo quyệt gì.
Trong cái gọi là “công hàm Phạm Văn Đồng” không hề nhắc gì tới Hoàng Sa, Trường Sa hay bất cứ đảo lớn đảo nhỏ nào của Việt Nam. Còn cái gọi “tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958”, hiện giờ Trung Cộng muốn chế tạo nó ra sao chẳng được?
Ngay cả tập bản đồ in năm 1972 và sách giáo khoa Địa lý lớp 9 in năm 1974 mà Trung Quốc vừa viện ra gần đây, cho rằng của Bộ Giáo dục cộng sản Việt Nam in, để bao biện và lấy đó làm bằng chứng rằng Việt Nam đã từ chối chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng không hề có nghĩa lý gì hết.
Tôi rất nghi ngờ về trình độ chuyên môn và kiến thức của mấy ông soạn sách này, vì mấy ông có lẽ cho rằng “Tây Sa” và “Nam Sa” theo cách gọi của Trung Cộng là hai hòn đảo nào đó sát bên Trung Hoa lục địa chứ nó không dính dáng gì đến Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
Bên cạnh đó, tôi cũng rất nghi ngờ về xuất xứ của tập bản đồ và cuốn sách Địa lý lớp 9 này. Rất có thể nó là sản phẩm ngụy tạo của Trung Cộng phục vụ mưu đồ xâm lấn Việt Nam.
Từ hơn nửa thế kỷ qua, Trung Cộng vẫn nổi tiếng nhất thế giới về làm hàng nhái và đồ giả. Từng đến Hồng Kông, Băng Cốc hay những thành phố lớn ở Châu Âu và Mỹ, như Paris, Amsterdam hay Los Angeles, New York… bạn hẳn đã từng gặp hoặc một anh chàng Mỹ đen hay Ả Rập, hoặc một anh Tàu, tới chào mời bạn mua những món như đồng hồ Rolex, Longines, Omega, những brand name rất ư nổi tiếng với giá hời.
Một chiếc Rolex thể thao giá thông thường khoảng 1.000 USD trở lên bạn có thể mua được với giá 50, 30 hoặc thậm chí 20 USD. Chiếc Longines tuyệt đẹp cũng giá 30-40 USD. Đó là hàng nhái do Trung Cộng chế tạo. Nhìn đẹp và y chang như thật nhưng có thể ngưng hoạt động bất cứ lúc nào sau khi bạn đã trả tiền và chiếc đồng hồ thuộc về bạn.
Từ thiết bị điện tử, kính Ray band cho đến nữ trang hay áo quần thời trang của các brand name lừng danh đều bị Trung Cộng làm hàng nhái, hàng giả. Thậm chí đến thuốc men trị bệnh hay thực phẩm, đồ uống, sữa bột cho trẻ em… đều bị Trung Cộng làm giả hoặc mặc sức gia công bằng các hóa chất độc hại để kéo dài thời giam bảo quản hay làm giả các chỉ số chất lượng, điển hình là vụ “gia công” melanin vào sữa bột trẻ em bán ngay tại Trung Quốc.
Các hóa chất này có thể gây ung thư trong một thời gian ngắn nếu người ta dùng thường xuyên thực phẩm, trái cây từ Trung Quốc, thậm chí có thể gây ngộ độc cấp tính, chết người nếu không được cấp cứu tức thì. Nhưng Trung Cộng không cần quan tâm đến tất cả hậu quả đó.
Bởi vì, mục đích của Trung Cộng là lũng đoạn kinh tế và chính trị thế giới. Để đạt mục đích đó, họ bất chấp mọi thủ đoạn. Bạn đọc nào muốn tìm hiểu thêm vấn đề này, xin mời đọc cuốn “Death By China” (Chết vì tay Trung Quốc) (*).
Trung Cộng, ngoài nạn nhân mãn là hiểm họa chung cho toàn thế giới – vì họ luôn phải tìm cách lấn chiếm đất đai của các quốc gia lân cận, lấn chiếm những vùng đất mới cho dân họ sinh sống, xa hơn nữa là xâm lấn sang tận Châu Phi, Châu Úc, thì chủ nghĩa Đại hán bành trướng và chủ trương đạt mục đích là trên hết, bất chấp thủ đoạn lại là một hiểm họa khác.
Hiểm họa trước hết là cho chính dân tộc Trung Quốc và sau nữa là cho toàn thế giới. Vụ tàn sát đẫm máu hơn bảy ngàn sinh viên và thường dân đấu tranh vì tự do dân chủ trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989, sau 25 năm bị chính quyền Trung Cộng bưng bít và xuyên tạc trước người dân trong nước cũng như công luận thế giới, nhưng những hình ảnh và thông tin vẫn còn đó.
Nhà cầm quyền Trung Quốc cho xe tăng cán tới cán lui trên thân thể những con người, cho đến khi họ trở thành những đống máu thịt bầy nhầy, rồi cho xe ủi gom thành đống để đem thiêu rụi. Cuối cùng là dùng xe vòi rồng cọ rửa cho thật sạch dấu tích.
Thông tin về chính quyền Giang Trạch Dân tàn sát những người theo môn khí công cổ truyền Pháp Luân Công có thể tìm thấy đầy rẫy trên Internet. Những người theo Pháp Luân Công bị mổ giết một cách lạnh lùng như mổ giết những con vật, để lấy nội tạng rao bán trên toàn thế giới.
Một bệnh nhân cần thay gan hay thận, sẽ được chào mời mua nội tạng cần cấy ghép, chỉ cần thông báo các chỉ số sinh học như nhóm máu, tế bào… được hứa hẹn là chỉ một tuần sau sẽ được cung cấp đầy đủ từ Trung Quốc!
Nhà nước Trung Cộng đối xử với chính người dân của họ như vậy, thì còn thủ đoạn nào mà họ không dám thi hành với tất cả người dân nước khác?
Và nước Việt Nam nhỏ bé của chúng ta hiển nhiên là nạn nhân đầu tiên của họ. Tôi sẽ không ngạc nhiên chút nào nếu nay mai Trung Cộng công bố cái tuyên bố ký ngày 4 tháng 9 năm 1958 của họ, mà trong đó, ngoài Trường Sa và Hoàng Sa còn có thêm… Vịnh Cam Ranh (!) hay thậm chí… Hà Nội (!) là của Trung Cộng!
Trấn Nam Quan, được coi là nơi Nguyễn Phi Khanh chia tay Nguyễn Trãi với lời nhắn nhủ “Về ngay đi, ghi nhớ hận Nam Quan - (...) Cha nguyện cầu con lấy lại giang san...” (Hoàng Cầm), hiện nằm sâu trong lãnh thổ Trung Quốc
Lãnh thổ Việt Nam không phải mới có từ hôm qua, mà được truyền lại từ cha ông tổ tiên qua bao nhiêu thời kỳ lịch sử. Từ ngót sáu trăm năm trước, người Việt đã ghi mối hận Nam Quan, khi Nguyễn Trãi đưa chân cha tới ải địa đầu này rồi phải chia ly vì Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt giải về Trung Quốc.
Nguyễn Trãi đã giữ đúng lời ước hẹn rửa thù cho nước, trả hận cho cha. Ông cùng Lê Lợi đánh đuổi quân Minh giành lại giang sơn đất nước. Đau buồn thay, đến ngày hôm nay thì cả Ải Nam Quan và một phần Thác Bản Giốc đã nằm sâu trong lãnh thổ Trung Cộng!
Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam! Trước năm 1975, Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam Cộng hòa.
“Trong thực tế, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này.
Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân Việt Nam Cộng hòa chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974”. (Đánh giá của ông Trần Công Trục, cựu Trưởng ban Biên giới Chính phủ, đăng trên báo “Giáo dục Việt Nam” ngày 13-6-2014)
Sau cuộc nội chiến, miền Nam thua, miền Bắc thắng trận thì Hoàng Sa và Trường Sa là của nước Việt Nam cộng sản. Bằng mọi giá, tất cả người Việt phải bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải của đất nước bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Không phải chỉ có đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam mới có trách nhiệm này vì họ đang cầm quyền trên đất nước Việt Nam, mà mỗi người dân, nhiều tầng lớp người dân khác nhau đều phải cùng gánh vác.
Công hay tội của những chính quyền đã và đang giữ vị trí lãnh đạo đất nước Việt Nam qua từng thời kỳ sẽ được nghiêm khắc phán xét trong lịch sử. Nhưng khi nguy cơ mất biển và mất nước đang nhãn tiền trước mắt thì phải đặt ra câu hỏi, liệu đến một ngày Việt Nam có còn lịch sử để ghi chép hay không?
Hãy thức tỉnh trước khi quá muộn, đừng để Việt Nam có chăng chỉ còn là lịch sử của mất nước và lưu vong!
Ghi chú (của NCTG):
(*)“Death by China” (NXB Pearson Prentice Hall, 2012) của hai tác giả Peter Navarro và Greg Autry, giảng viên tại Đại học California-Irvine (Mỹ).
Trần Nghi Hoàng, từ Hoa Kỳ Ngày 17-6-2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét