Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2014

SỰ THẤT BẠI NGOẠN MỤC CỦA TRUNG QUỐC TẠI BIỂN ĐÔNG

Người dịch : HaHanGiang
05-08-2014.

Bất kể mục tiêu gì mà Bắc Kinh muốn đạt được khi đặt giàn khoan Hs-981, hay lợi thế lãnh thổ, hoặc lợi ích chiến lược dài hạn - cũng đều không thành công.

Dù là ở góc độ nào, thì cuộc phiêu lưu hút dầu của Trung Quốc tại vùng biển Nam Trung Hoa cũng là một thảm họa. Không có tí dầu mới nào đến tay người tiêu thụ Trung Quốc, không có thêm tấc lãnh hải nào được công nhận và lợi thế khu vực lại được trao tay Mĩ. Sự nhất quán của Asean được giữ vững và vị thế của các lực lượng “thuận Bắc Kinh” tại các nước trọng yếu, rõ nhất là Việt Nam, đã suy yếu nghiêm trọng. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã được chứng minh là vô dụng. Làm thế nào mà mọi thứ lại thê thảm như thế?


Chúng ta không thể biết các nhà lãnh đạo Trung Quốc hy vọng đạt được gì khi phê duyệt hạ đặt giàn khoan lớn nhất nước cùng với một hạm đội nhỏ các tàu chiến vào vùng nước cùng được công nhận bởi Việt Nam. Dường như chiến dịch này không chỉ đơn thuần là một nỗ lực tìm kiếm dầu. Có nhiều nơi khác đáng thăm dò hơn. Vào ngày 19 tháng Ba, China National Offshore Oil Corporation (Tập Đoàn Dầu Khí Ngoài Khơi Trung Quốc) (CNOOC) tuyên bố rằng họ đã tìm ra một mỏ khí ga tầm trung tại vùng nước không tranh chấp gần đảo Hải Nam. Việc khai thác mỏ khí này bị trì hoãn lại khi cuộc hành trình Hoàng Sa tiến xa hơn về phía nam.

Hai khu vực thềm biển được thăm dò bởi giàn khoan khổng lồ Hs-981 không khả quan với khí hydrocarbon. Một báo cáo năm 2013 bởi Cục Quản Lý Thông Tin Năng Lượng Mĩ cho thấy trữ lượng năng lượng của Hoàng Sa là thấp. Dường như CNOOC, đơn vị kinh nghiệm nhất về ngoài khơi, lại không tham gia vào cuộc thám hiểm. Mặc dù chi nhánh của CNOOC là COSL đang vận hành giàn khoan, nhưng cả chiến dịch lại do Tập Đoàn Dầu Khí Quốc Gia Trung Quốc chỉ đạo (CNPC) và đơn vị này không có mấy kinh nghiệm trong việc thăm dò biển Nam Trung Hoa.

HS981 kết thúc nhiệm vụ sớm hơn một tháng, khi sắp phải đối mặt với siêu bão sắp tới là Rammasun. CNPC tuyên bố rằng dàn khoan đã tìm ra hydrocarbon, nhưng rất không cụ thể về chi tiết và số lượng. Hầu như chắc chắn rằng nguồn năng lượng này sẽ không bao giờ được khai thác thương mại cho các nguyên nhân kĩ thuật lẫn chính trị. Chiến dịch này không hẳn là về dầu. Một động lực có thể loại trừ.

Chúng ta được biết rằng nhiệm vụ này không phải là một nỗ lực để khuấy động chủ nghĩa quốc gia ở Trung Quốc bởi vì, theo như nhà nghiên cứu người Úc Andrew Chubb đã cho thấy, tin tức về các cuộc đụng độ giữa lực lượng bảo vệ giàn khoan và lực lượng bảo vệ bờ biển của Việt Nam không được truyền thông Trung Quốc đăng cả một tuần lễ sau đó.

Tuy nhiên có thể có một mục đích chính trị khác. Một chiến dịch tầm cỡ như vậy hẳn đã được tính toán kĩ từ trước và được sự tán thành từ các cấp cao nhất. Các quan chức Trung Quốc cho biết giàn khoan đã đến trạm vào ngày 3 tháng 5, đúng 1 tuần trước khi cuộc họp của Hiệp Hội các Nước Đông Nam Á (ASEAN) diễn ra tại Myanmar. Có lẽ Bắc Kinh hy vọng lập lại thành công của mình tại cuộc họp Bộ Trưởng Ngoại Giao của ASEAN tại Phnom Penh vào tháng 6 2012. Lúc bấy giờ, ASEAN chia rẽ: Campuchia phủ quyết một số các tuyên bố, khiến Việt Nam và Phillipines bị cô lập trong tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc.

Nếu Trung Quốc hy vọng đạt được điều tương tự với Hoàng Sa, thì tác động lại hoàn toàn đối nghịch. ASEAN đã cùng nhau thể hiện một sự đồng nhất rõ rệt và cho ra một tuyên bố chung, hàm ý kêu Bắc Kinh lùi lại. Đây là lần đầu tiên mà hiệp hội này chọn chỗ đứng trong vụ Hoàng Sa - cái mà hoàn toàn chỉ là mâu thuẫn song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc (khác với tranh chấp Trường Sa, ảnh hưởng đến năm nước ASEAN, bao gồm cả Indonesia). Andrew Chubb còn cho rằng sự thể hiện thống nhất một cách im lặng như vầy có tác động còn to lớn hơn cả các tuyên bố cấp cao từ Washington.

Một vài nhà bình luận cho rằng động thái này là một ví dụ của thủ thuật “xắt lát”(salami slicing- thái mỏng đòn chả) - một quá trình chiếm hữu biển Nam Trung Hoa ổn định bằng những bước đi nhỏ không quá gây chú ý. Nhưng nếu đây là mục tiêu, thì cũng đã thất bại vì khi giàn khoan được rút đi, vùng nước này, lại một lần nữa, không bị chiếm hữu. Bộ chính trị có thể đã nghĩ rằng, một tuyên bố mang tính quyết định về quyền kiểm soát hàng hải sẽ củng cố các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với các quần đảo, nhưng sự phản ứng mạnh mẽ của Việt Nam cũng đủ để thấy nước này phản đối các tuyên bố đó.

Nhà phân tích người Úc Hugh White tranh luận rằng mục đích của Trung Quốc khi kích động các đương đầu như vậy là cốt để kéo giãn và làm suy yếu các mối liên kết an ninh đang thắt Mĩ với Đông Nam Á. “Bằng cách đương đầu vũ lực với đồng minh của Mĩ,” ông nói, “Trung Quốc đương đầu với Mĩ bằng chọn lựa hoặc là bỏ rơi nước bạn hoặc là đối chọi với Trung Quốc. Bắc Kinh đánh cược rằng, khi đối mặt với sự lựa chọn như thế, Mĩ phải lùi bước và bỏ rơi đồng minh. Điều này sẽ làm suy giảm các đồng minh Mĩ và các sự cộng tác, bào mòn uy thế Mĩ tại châu Á và củng cố sức mạnh của Trung Quốc.”

Nhưng Việt Nam không phải là đồng minh Mĩ, cho nên động thái này lại chỉ là về việc đối chọi với Trung Quốc. Tuy nhiên, khi khiêu khích đối đầu như vậy, Bắc Kinh lại đạt được điều ngược lại với quan điểm của ông White: đẩy Hà Nội lại gần hơn với Washington. Như trong cuốn sách gần đây của ông David Elliot nêu rõ rằng, chính sách đối ngoại của Việt Nam nhìn chung là thuận Trung Quốc từ khi họ không còn thuận USSR (Liên Bang Xô Viết). Trong hai thập niên vừa qua, chỉ khi các tiếng nói thuận Trung bị suy yếu do các thất bại chính sách và sự bài Trung-thì các nhà dân chủ mới có thể định hướng lại chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Nhà nghiên cứu Zachary Abuza qua  bài phân tích của ông đã cho thấy rằng, sự cân bằng các thế lực trong tầng lớp lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thay đổi ra sao, là do hậu quả của việc đối đầu giàn khoan. “Một cuộc họp vào tháng 6 năm 2014 của Ủy Ban Trung Ương của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thống nhất lên án sự hung hăng và xâm lấn của Trung Quốc” ông nói. Vào cuối tháng 7, ủy viên bộ chính trị Phạm Quang Nghị đã có một chuyến thăm đến Mĩ với lời mời từ Bộ Ngoại Giao đã gây nhiều chú ý. 

Nói ngắn gọn là, bất cứ điều gì mà Trung Quốc mong đạt được khi hạ đặt giàn khoan HS-981, lợi thế lãnh hải hay chiến lược dài hạn - cũng đều không thành công. Làm thế nào chúng ta có thể giải thích được sự thất bại ngoại giao như vậy? Tôi nghĩ rằng động thái này cho thấy chính sách biển Nam Trung Hoa của Trung Quốc giống như một sự phản chiếu về các ưu tiên trong nước hơn là chính sách ngoại giao. Tóm lại, biển Nam Trung Hoa trở thành một “cái máng heo ăn” khổng lồ [a giant pork barrel]) cho một số tỉnh của Trung Quốc, các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước.

Hai thập niên trước, John Garver tranh luận rằng sự tiến sâu vào biển Nam Trung Hoa của hải quân Trung Quốc tượng trưng cho “sự tương tác của lợi ích quốc gia và lợi ích của quan chức”. Nó vẫn đang tương tác. 

Hải quân của họ đang ngày càng lớn hơn cùng với ngân sách của nó. Thanh thế, cấp bậc và tiền thưởng cũng theo sau. Điều tương tự cũng đúng với lực lượng Phòng Vệ Bờ Biển Trung Quốc mới- một năm sau khi gộp các lực lượng hàng hải nhỏ hơn thành một. Phòng Vệ Bờ Biển cần tập trung vào cái gì đó hơn là các cãi vã nội bộ khi nó đã hoàn thành các sáp nhập và cả lực lượng này và hải quân đang tìm kiếm nhiệm vụ để thể hiện sự hữu dụng của mình đồng thời biện hộ cho kinh phí của mình.

Và những gì đúng với quân đội thì cũng đúng với các tỉnh phía nam. Hải Nam là tỉnh nhỏ nhất của Trung Quốc và tương đối nghèo với kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Trong những năm gần đây tỉnh này đã bỏ nhiều công sức vào phát triển ngành đánh bắt cá và trở thành chuyên gia thu hoạch các trợ cấp chính phủ để sắm tàu mới. Một số các báo cáo tại chỗ xuất sắc của Reuters tháng vừa rồi nhắc chúng ta rằng có cả trăm, thậm chí cả nghìn tàu cá nhận từ 300USD tới 500 USD mỗi ngày để đánh bắt tại vùng biển tranh chấp. Trong khi một thuyền trưởng nói rằng, “Các nhà chức trách hỗ trợ đánh bắt trong vùng biển Nam Trung Hoa là để bảo vệ chủ quyền Trung Quốc” có thể chính xác mà nói rằng các nhà chức trách dùng cái bảo vệ chủ quyền để biện hộ cho việc hỗ trợ đánh bắt. Reuters còn phát hiện tám tàu đánh cá lưới rà đang xuất phát tại cảng Dongfang Hải Nam mỗi tàu được cho 322,500 USD để “nâng cấp”.

Các công ty dầu khí cũng có thể chơi tấm bài chủ quyền để hỗ trợ các chuyến đi bán thương mại của họ vào biển Nam Trung Hoa. Tháng 5 năm 2012, khi CNOOC đưa giàn khoan nước sâu được trợ cấp vào trung tâm khu đối đầu Hoàng Sa, HS981, vị chủ tịch đã hùng hồn miêu tả giàn khoan này như là “một lãnh thổ quốc gia di động và là một vũ khí chiến lược.”

Vậy nên, có vẻ hơi lạ rằng CNOOC lại không chịu trách nhiệm cho cuộc thám hiểm Hoàng Sa. Tại sao? Chúng ta không có được hé lộ gì về các toan tính của  tập đoàn nhưng một số lý giải tự hiện ra. CNPC có thể đã chấp nhận rủi ro mà CNOOC không dám - cả kĩ thuật lẫn chính trị. Đây là lần đầu tiên mà HS981 được dùng vào vùng biển sâu và lần đầu trong vùng biển tranh chấp. Có thể CNPC cố đi trộm trước CNOOC một bước khi đánh dấu của mình vào vùng chưa do thám. Hoặc có thể quản trị cấp cao của CNPC đang cố thoát ra khỏi các rắc rối chính trị sâu sắc. Các cáo buộc tham nhũng xoắn ốc (spiralling, từ thấp lên cao) với công ty này đang trở thành xì căng đan chính trị trong nước. Quản trị của CNPC có thể đã đặt mục tiêu là treo cờ trong vùng biển tranh chấp như là cách để chùi mép với bộ chính trị và cứu lớp vỏ của mình.

Không có điểm nào có ý phủ định rằng các thành phần Trung Quốc tham gia vào cuộc đối đầu giàn khoan này toàn tâm toàn ý tin vào tính hợp lệ của sự tuyên bố chủ quyền của nước mình tại biển Nam Trung Hoa. Huyền thoại về “chủ quyền không tranh cãi” của Trung Quốc đã được khắc sâu vào các thế hệ trẻ em Trung Quốc. Tôi đã tranh luận trong một bài viết khác, rằng niềm tin này phụ thuộc vào các giải thích sai lệch về lịch sử Đông Nam Á bởi các nhà chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc, nhưng tôi không nghi ngờ gì khi các lãnh đạo Trung Quốc thật sự tin vào sự đúng đắn của nó. Dù sao, vì các lợi ích đặc biệt bên trong Đảng và nhà nước Trung Quốc, biển Nam Trung Hoa đã trở thành một gói kẹo chính trị khổng lồ. Họ đơn giản cứ phải quẩy vấn đề này, lần này rồi lần khác, để có một dòng trợ cấp chảy từ chóp bu xuống. Chính sách trên biển của Trung Quốc không giống như là kết quả của tổng hợp các lí luận thích đáng mà có vẻ nhiều hơn là các kết quả khó đoán từ các chiến dịch vận động hành lang chất đống. Khi họ làm việc với nhau, sức mạnh của các nhóm lợi ích này rất lớn: họ có thể đung đưa chính sách của Đảng Cộng Sản để có lợi cho mình. Một điều mà họ có thể nhất quán, dù nguyên nhân là chủ nghĩa quốc gia, an ninh, lợi nhuận hay việc làm, là Trung Quốc phải nắm được các tài nguyên ở biển Nam Trung Hoa.

Quá nhiều các nhà bình luận bị khuất phục bởi các nỗ lực tuyên truyền của Trung Quốc. Giai thoại về sự bất bại bí hiểm của Bắc Kinh đang bắt rễ trong các bài bình luận tự do của quá nhiều hãng tin. Kết quả là ngay cả khi Trung Quốc mắc sai lầm, thì lại đơn giản được cho là một bước lùi cho những âm mưu tinh vi và phức tạp hơn. Đến lúc phải xua đi cái làn khói giai thoại này và nhìn nhận những sai lầm của Trung Quốc một cách đúng chất. Vào lúc này, “be bét”[cockup] là chữ mô tả bước đi của Trung Quốc vào biển Nam Trung Hoa, hơn là từ “âm mưu”. ./.

HHG

Bill Hayton, tác giả cuốn The South China Sea: the struggle for power in Asia [Biển Đông: cuộc tranh giành quyền lực tại châu Á] sắp được Yale University Press xuất bản.
B. H.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét